Đã hơn một thập kỉ trôi qua từ cái ngày mà mây xúm lại âm u khóc oà, gió thổi mạnh như bão sắp bùng lên và đất cằn cỗi kín mít một màu xám, người dân sinh sống ở nhiều vùng lân cận quanh “Thủ phủ của sương mù” vẫn còn truyền tai nhau một câu chuyện mà những vị khách lạ đường xa hay lắc đầu nguầy nguậy không tin – giống như vị khách từ quốc đảo lạnh giá đang bị trói chặt trên ghế trước mặt tôi đây. Dù đây đã là lần thứ hai, tôi vẫn sẽ vinh hạnh làm người kể chuyện, kể lại cho cậu ta nghe những gì được lưu truyền đến tận bây giờ.
Có lẽ, câu chuyện nên bắt đầu từ một ngày oi bức mùa nắng đổ ở một thị trấn không tên nọ…
“Ôi chà? Tiểu thư? Sao người ra đây một mình thế này? Không có ai đi cùng sao?”
Một bóng dáng nhỏ con, chỉ chạc bảy, tám tuổi, thoăn thoắt chạy trên con đường đất thô sơ, hai bên là hai cánh đồng lúa mì chín vàng. Nếu chỉ là một đứa trẻ thông thường thì đã chẳng có ai mở lời hỏi han, nhưng đứa trẻ này lại mang một màu tóc bạch kim, dài thướt tha và nổi bật đến mức mê hoặc đôi mắt của những người đang gặt vụ lúa chín.
“Chào bác! Hôm nay nháu trốn đi chơi nữa nè!” Miệng cười hì hì, cô nhóc liền khoe luôn thành tích của mình với bác nông dân.
“Vậy là không được đâu. Lát nữa kiểu gì tiểu thư cũng bị tóm đấy!”
“Không bị bắt được! Cháu chạy nhanh lắm.”
“Thật là… Rồi rồi, tiểu thư đi chơi vui vẻ. Nhớ cẩn thận đấy nhé.”
“Vâng ạ!”
Đây là một nơi hiếm hoi không hỗn loạn trên khắp thế giới vào thời điểm đó. Trong khi đâu đâu, ai cũng đau đầu với những biến động chính trị không ngừng thì tại vùng tự trị của một quý tộc nhỏ này, thế giới tưởng chừng như vẫn rất yên bình, trong mắt của người dân và cả những đứa trẻ.
Nhưng suốt dòng chảy lịch sử, thời thế hỗn loạn thì khó có nơi nào bình yên mãi.
“A! Con nhóc hôm trước tẩn tụi em kìa đại ca!”
Một đám loắt choắt đã xuất hiện! Ba trong bốn đứa trẻ đồng loạt chỉ tay đến cô bé vẫn đang nhắm tít mắt lon ton chạy nhảy trên mặt đường. Nhưng nghe thấy tiếng hô hoán khi nãy, cô bé dừng chân lại, nheo mắt nhìn khuôn mặt cau có của đám nhóc cách đó xa xa đằng trước. Nhận thấy đó là người quen, cô liền hớn hở chạy lại.
“Lại là mấy người à?” Cô nhóc nghiêng đầu, tay chống nạnh, vẻ mặt tự tin. “Chạy không nổi thì đừng có đuổi theo nhá.”
“Cái gì? Con nhóc này dám coi thường tụi tao à?” Thằng nhóc được gọi là đại ca gầm lên. Nó cao hơn một chút so với cô bé, gương mặt lem luốc và ánh mắt hằn học khiến nó trông ra dáng thủ lĩnh của đám côn đồ nhí nhố.
“Dám chọc tức đại ca à? Lần này tụi tao không tha đâu!” Một đứa khác la lớn, tay lăm lăm nhặt lên một cục đá nhỏ.
Nhưng thay vì sợ hãi, cô bé lại cười khúc khích, chân đã bắt đầu lùi dần về phía sau. “Mấy người chậm như rùa ấy. Có giỏi thì đuổi đi.”
Nói rồi, cô bé quay lưng và lao đi như một con gió, mái tóc bạch kim tung bay trong ánh nắng chiều. Đám trẻ hò hét rượt theo, nhưng rõ ràng tốc độ của chúng không thể nào bì kịp.
“Bắt nó lại! Đừng để nó thoát!” Đại ca hét lớn, vừa chạy vừa thở hồng hộc.
Cô bé chạy băng qua cánh đồng lúa mì, bàn chân nhỏ xíu của cô như không hề chạm đất. Đến khi nghe tiếng bọn trẻ ngày càng nhỏ dần, cô dừng lại, ngoảnh đầu nhìn về phía xa. Một bóng dáng vừa chạy vừa thở dốc ngã sóng soài xuống mặt đường đất.
Bọn trẻ nằm đấy, còn những ai đang làm việc trông thầy chỉ biết che miệng cười lũ nhọc nghịch ngợm nô đùa đến vã cả mồ hôi giữa cái nắng trưa hè. Riêng bọn chúng là tức lắm, bữa trước vừa bị cô nhóc chơi một vố đau mà nay lại chẳng làm gì được. Tên nhóc ban nãy nhặt đá lên thì có đáng sợ đấy, nhưng ném trật lất hết rồi!
“Ha! Đã nói mà, đuổi không kịp đâu!” Cô bé chống tay lên hông, cười vang, như thể chiến thắng là điều tất yếu. Vì đã chẳng còn hơi sức đâu mà cự cãi, đã thế lại còn đang làm trò cười cho những người xung quanh, bộ tứ côn đồ loắt choắt này chật vật đứng dậy, tay chỉ thẳng vào mặt cô bé đang trưng ra vẻ mặt đắc thắng.
Như bao ngày, hôm nay cũng sẽ kết thúc bằng việc cô bé bị người hầu tóm được mà gô cổ về nhà. Hễ mỗi lần như thế, lại còn là trước mặt đám nhóc kia, cô nhóc sẽ làm ầm lên như sắp rung cả đất, sập cả trời, vì thế mà lũ trẻ được phen hả dạ.
Nhưng đến cả trời đất, vũ trụ, vạn vật rồi cũng sẽ đổi thay, huống hồ gì là những ngày tháng rong đùa của một đứa trẻ?
Hôm nay là một ngày như vậy.
Trời mưa phùn nhè nhẹ, những hạt mưa rơi xiên theo chiều gió cuốn, con đường đất vốn lác đác đôi ba người qua lại nay cũng vắng bóng người. Riêng chỉ có cô bé nọ, vẫn tung tăng dưới mưa trong chiếc áo mưa thùng thình lén thó được từ nhà kho, hàng tặng kèm của cô bé là một đôi ủng cũng rộng không kém.
Cô bé không chủ đích đi tìm bạn, chỉ đơn giản là đi ngắm mưa.
Lần trước, nhóc ta cũng trốn đi như này, ngay giữa trời mưa mà lại không có gì che chắn, thế là lúc mò về đã ướt như chuột lột, người ở trong nhà phải chịu cơn thịnh nộ của bà cô tối ngày lăm lăm quyền trượng trong tay mà tối tăm mặt mũi cả ngày hôm đó. Thấy họ vì mình mà bị rầy la cũng tội, thành ra lần này cô bé rút kinh nghiệm, đã có chuẩn bị nhiêu đây nên nhóc ta chắc mẩm:
“Sẽ không bị phát hiện đâu!”
Mà lũ người kia cũng thật tắc trách. Dẫu biết cô chủ nhỏ của mình có tính cách lém lỉnh tinh nghịch, ấy thế mà vẫn chẳng ăn thua gì, cứ để cô thành công trốn ra ngoài mãi… Cứ như là cố tình vậy!
Lon ton lon ton một hồi, vì không thấy bóng người nào quanh con đường dài mình vẫn hay đi qua, thế là cô nhóc chạy tót vào trong thị trấn. Thực ra, không phải khi trước cô bé không vào đây, chẳng là lúc nào cũng hay bị bà cô kia phát hiện sớm quá, kết cục là đâu có khám phá gì thêm được. Đấy là còn chưa kể lũ nhóc có thù với cô bé hay chặn đường đòi trả đũa mãi không xong. Nhân lúc hôm nay trời mưa nên chúng nó trốn đi đâu rồi không biết, cô bé đã được phen vào tít tít sâu đằng trong.
“Oẹ, trông bẩn ghê…”
Mưa nặng hạt hơn, những con hẻm nhỏ trong thị trấn ngày mưa trông càng lầy lội hơn, với đất bùn hòa lẫn nước mưa chảy thành dòng. Đôi ủng rộng thùng thình của cô bé kêu lẹp bẹp mỗi khi bước, để lại dấu chân nhỏ xíu trên mặt đất. Cô bé nhăn mũi khi nhìn những vũng nước đen ngòm và rác rưởi trôi lềnh bềnh. Nhưng dù có chút khó chịu, đôi mắt sáng lấp lánh của cô vẫn không ngừng tìm kiếm những điều thú vị mới mẻ.
“Chỗ này sao chẳng giống gì trong mấy câu chuyện mình nghe.” Cô bé lẩm bẩm, đầu ngó nghiêng hai bên. Những ngôi nhà ở đây chen chúc nhau, mái ngói cũ kỹ và bám đầy rêu, những cánh cửa gỗ thì ọp ẹp, như thể chỉ cần một cơn gió mạnh cũng có thể cuốn phăng tất cả.
Cô bé cứ đi mãi, cho đến khi bất giác dừng lại trước một căn nhà nhỏ nằm khuất sau lớp cây leo phủ kín mặt tiền. Cánh cửa gỗ sơn xanh lá, dù đã bong tróc nhiều, vẫn toát lên nét gì đó đặc biệt. Không giống những ngôi nhà khác, nơi đây không có ánh sáng của đèn dầu, nhìn lâu thì nó lại càng cũ kỹ, toả bầu không khí mệt mỏi.
“Căn nhà này lạ quá…” Cô bé tự nhủ, thế là bèn tiến lại gần hơn để quan sát.
Khi chạm tay lên cánh cửa, cô thoáng giật mình vì nó hơi hé mở, phát ra một tiếng kẽo kẹt kéo dài. Tò mò hơn là sợ, cô nhóc ló đầu nhìn vào bên trong. Ánh sáng từ ngoài đường lọt qua khe cửa, chiếu sáng một căn phòng nhỏ. Trên sàn là những họa tiết hình tròn kỳ lạ được vẽ bằng thứ bột trắng mà cô không thể nhận ra, nhìn kỹ thì chúng lại giống mấy bức vẽ người méo mó mà cô bé cũng từng cầm phấn màu bôi bết khắp tường nhà ngày mới biết đi. Mọi thứ trông vừa cũ kỹ, vừa bí ẩn, và có một mùi hương thoang thoảng như mùi thảo dược cháy.
“Xin chào? Có ai không?” Cô bé gọi lớn, nhưng không nhận được tiếng đáp lại.
Tuy nhiên, đúng lúc cô định bước vào thì tiếng chân ồn ã vang lên phía sau. Cô bé quay phắt lại, tim đập thình thịch… thình thịch… Tưởng gì! Hoá ra là lũ oắt con quen mặt đây mà!
“A! Bộ tứ!”
Bốn đứa trẻ đứng chắn ở lối vào, áo quần đẫm mưa và dính đầy bùn đất, nhưng ánh mắt thì ánh lên vẻ hả hê như vừa tóm được vàng. Tên đại ca nhếch môi cười đểu, tay chỉ thẳng vào cô bé.
“Lần này thì chạy đâu cho thoát, con nhóc!”
Cô bé tròn mắt ngạc nhiên, sau đó bĩu môi. “Làm sao mà các cậu tìm được mình ở đây? Theo dõi à?”
“Đang ngồi trong nhà, thì chúng tao thấy!”
“Ngồi đâu mà thấy được mình? Các cậu rình ai thế hả?” Cô bé gắt lên, đôi tay nhỏ xíu chống hông.
“Bớt nói nhảm lại, bọn tao thấy là thấy! Giờ thì chuẩn bị tinh thần ăn đòn đi!” Thằng nhóc đại ca ngắt lời cô, chân lấm bùn, bước từng bước lộp bộp tiến tới. Ba đứa phía sau cũng hùa theo, mặt đứa nào đứa nấy trông như đang nuốt cục tức từ hôm trước còn chưa tiêu hóa xong.
“Con nhỏ này hết chạy rồi nhé!”
“Đã vào địa bàn của chúng ta thì tiêu đời rồi!”
“Đại ca! Cho nó một trận!”
“Được rồi, cứ để đó cho ta!”
Cả bốn đứa bẻ khớp mười đầu ngón tay kêu rộp rộp sao mà thích tai, chuẩn bị nắm đấm của chúng sao cho thật kỹ để còn dạy dỗ đứa nít ranh làm bẽ mặt chúng bấy lâu. Hôm nay mỡ lại dâng miệng mèo, để vuột mất thì phí quá!
Nhưng mà…
Cạch.
Đang vui thì đứt dây đàn, cánh cửa đằng sau cô tiểu thư nhỏ mở to, từ trong bóng tối đặc quánh, bóng dáng một cậu nhóc gầy guộc dần dần lộ ra.
Đôi mắt cậu thâm quầng, sưng húp. Hai má xước xát đủ chỗ, máu đông cứng lại ở miệng những vết thương trông mà nhói lòng. Đó là còn chưa kể bộ quần áo cậu ta mặc, rách rưới, bẩn thỉu, thối hoắc như vừa phải ngoi lên từ cái cống nào đấy. Nhìn lướt qua thôi cũng đã thấy tội nghiệp. Nhưng thứ làm tất cả bọn trẻ đông cứng tại chỗ không phải bộ dạng thảm hại của cậu, mà là ánh mắt cậu – sâu hoắm, trống rỗng, và u ám đến mức khiến người khác không rét mà run.
Cậu nhóc không nói gì, chỉ đứng lặng lẽ trong bóng tối, ánh sáng lờ mờ từ ngoài hắt vào khiến khuôn mặt gầy gò của cậu càng thêm phần ghê rợn. Trong vài giây dài đằng đẵng, không ai dám nhúc nhích, kể cả bọn côn đồ vốn đang hừng hực khí thế ban nãy.
Cô bé bạch kim, dẫu cũng hơi bối rối, lại không lùi bước. Cô nghiêng đầu, nhìn cậu nhóc với vẻ tò mò:
“Cậu... sống ở đây à?”
Không trả lời.
“Cậu có sao không? Mặt cậu chảy máu kìa.” Cô bé tiến thêm một bước, giọng nói trong trẻo nhưng không giấu được chút lo lắng.
Đúng lúc đó, cậu nhóc nhấc tay lên. Một ngón tay gầy guộc chỉ thẳng về phía bọn trẻ đang đứng phía sau cô bé. Giọng cậu khàn đặc, như vang lên từ tận địa ngục:
“Đi.”
Chỉ một từ ngắn gọn, nhưng đủ để khiến bọn côn đồ tái mét mặt. Đại ca run run nuốt khan, quay phắt người:
“T-Tụi tao... tụi tao không rảnh chơi với mày đâu! Đi thôi!”
Không cần phải nói thêm lần thứ hai, cả bốn đứa nhóc cắm đầu chạy biến, bùn đất văng tung tóe dưới chân chúng.
Tiểu thư đây vẫn chưa hiểu chuyện gì, tiếp tục đứng đó, tròn mắt ngạc nhiên nhìn cảnh tượng vừa diễn ra. Sau khi bọn kia biến mất, cô quay lại, nhìn cậu nhóc kỳ lạ với vẻ thán phục pha lẫn hiếu kỳ:
“Cậu làm gì mà tụi nó sợ vậy?”
Cậu nhóc không trả lời. Thay vào đó, cậu lặng lẽ quay người, đi vào bóng tối bên trong căn nhà. Cánh cửa kẽo kẹt khép lại phía sau cậu, để lại cô bé đứng đó một mình, ngẩn ngơ nhìn theo. Song, lại vì bản tính tò mò, cô nhóc đã lén bước vào sau. Cánh cửa kẽo kẹt đóng lại sau lưng, và ánh sáng mờ nhạt từ bên ngoài dần nhường chỗ cho bóng tối ngột ngạt. Chỉ cho đến khi hai cánh cửa sổ mở ra, chút ánh sáng xám xịt mới len lỏi vào trong.
Cậu bé, đứng trên hình vẽ của ba người, trông như một gia đình hạnh phúc, chằm chằm nhìn vào cô bé. Dường như, bóng tối sâu trong đôi đồng tử của cậu ánh lên một ngọn lửa.
“Ngươi... là con của gia đình quý tộc kia, đúng không?” Giọng nói cậu trầm, thấp mà lại nghẹn ngào, giống như đang kìm nén một nỗi đau sâu trong lồng ngực.
Cô bé lùi lại một bước, ánh mắt hoang mang. “Ư… Ừm.”
“Vậy tại sao… lại còn đến đây?”
Lưng cậu ta quay về phía cô bé, trong khi cậu thì đang lúi húi làm gì đó với cái hộc tủ vừa được cậu kéo ra. Nhưng cái gương trước mặt cậu lại khai ra hết mọi toan tính của cậu. Y như rằng, cô nhóc đã thoáng thấy hình ảnh trong gương, lưng liền áp sát cánh cửa đằng sau… Ô? Quái lạ? Tại sao mình lại không mở được cửa? Thứ gì đó! Có thứ gì đó đã chặn cửa!… Qua tiếng cười khúc khích kia, cô bé đã biết là bốn nhãi con ban nãy nhốt cô lại ở đây.
Nén hoang mang lại, cô bé mới ngập ngừng nói:
“Tại sao… cậu lại nhìn tớ như thế?”
Cậu không trả lời, chỉ chầm chậm đối diện với cô. Chỉ trong nháy mắt, cậu lao tới. Trước khi cô bé kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra, cơn đau lạnh lẽo đã xuyên qua lồng ngực nhỏ bé ấy. Con dao trong tay cậu ta cắm thẳng vào trái tim đập loạn, máu bắn ra loang lổ trên chiếc váy trắng tinh khôi, chảy xuống đôi ủng còn đẫm bùn đất.
Gần như này, cô bé mới thấy ánh mắt của cậu ban nãy như rực lửa là vì hận thù, là vì cơn phẫn nộ kìm nén. Còn giờ đây, nó đã ánh lên một tia sáng, cùng với đó là sự mãn nguyện nở trên khuôn miệng non nớt mà xảo quyệt.
“Cha, mẹ… cuối cùng… cuối cùng con cũng đã trả thù được cho hai người rồi!”
Hỡi ôi thế gian tàn nhẫn! Một cô bé vô tội đây đã lỡ làm điều sai, phạm phải tội lỗi gì mà đáng bị thành ra nông nỗi này?! Không gì cả!
Có chăng, “tội” của cô tiểu thư đây là vì bản thân được sinh ra đã nằm trong chăn bông, được mặc trên mình những tấm lụa êm, không phải lo nghĩ gì, chỉ cần thoả thích sống trong vòng tay bao bọc của biết bao nhiêu người. Nói ngắn gọn lại, bởi vì cô bé sinh ra đã là quý tộc.
Con dao trên ngực cô bé không được cậu ta rút ra, nó nằm im ở đó, lấy đi từng giây từng phút của sinh mạng ngắn ngủi, đổi lại cho cô tiểu thư tội nghiệp bằng cơn đau điếng người lần đầu phải trải qua. Trong lúc đó, tên “sát nhân” kia đã ngồi bệt xuống bức vẽ nguệch ngoạc, nhớ lại bi kịch của gia đình cậu.
Như nhiều người dân ở vùng này, nhà cậu làm nông dân, sống một cuộc đời bình dị với cha và mẹ. Tuy nhiên, nếu cuộc sống của họ yên bình thì cậu đã chẳng phải làm đến bước đường này… Lại là câu chuyện muôn thuở giữa dân đen và tầng lớp cai trị. Sưu thuế nộp không đúng hạn, người cha phải làm thêm trong hầm mỏ, một tai nạn đáng tiếc, cái chết đơn độc tưởng chừng như được dàn dựng, lại thêm người mẹ vốn đã ốm yếu đón nhận tin dữ mà qua đời không lâu sau. Những chuyện đó có chăng chỉ là trùng hợp? Không, cậu ta không nghĩ vậy, chắc chắn đây là hình phạt, và gia đình cậu là trò tiêu khiển cho lũ quý tộc thối tha kia! Chỉ vì lẻng kẻng mấy xu vàng nộp thiếu lại làm đến mức khiến gia đình cậu tan nát!
Cậu đau khổ, nhưng sức trẻ lại chẳng làm được gì lũ bạo chúa… Cho đến hôm nay.
Cô bé đâu có tội tình gì? Nó biết! Biết rõ chứ, nhưng nỗi hận thù ấy phải làm thế nào cho nguôi? Đúng rồi! Phải khiến gia đình của nó chịu nỗi đau tương tự! Và còn gì dễ dàng hơn khi mỡ đã dâng miệng mèo, con mồi đã đến trước mặt tay thợ săn?…
Máu chảy xuống sàn gỗ, tạo thành một vũng đỏ lòm trộn lẫn với những giọt nước chảy xuống từ cái áo mưa sặc mùi hôi tanh. Nó lan ra, chảy qua khe cửa, ra đến hiên nhà, chầm chậm chạm vào đôi chân trần của những đứa trẻ láu cá ngoài kia chưa hiểu chuyện. Chỉ đến khi nghe thấy tiếng kêu cứu the thé bên kia cửa, chúng nó mới bàng hoàng, giật mạnh cánh cửa gỗ ra, khiến cơ thể nhỏ bé nọ ngã nhoài, nằm bẹt trên vũng máu tươi.
“Mày… mày đã làm gì nó?” Cậu nhóc thủ lĩnh vẫn chưa tin vào mắt mình, run rẩy chỉ tay vào tên sát nhân. Nó biết thứ chất lỏng màu đỏ đó là gì, vì nó từng thấy bố đã đánh mẹ nó đến mức đầu bà văng ra những dịch lỏng tương tự, chỉ là không nhiều như thế này. Mà chẳng phải riêng gì nó, đứa nào đứa nấy cũng đều biết rõ.
Mưa rơi lộp bộp trên mái nhà ngày một nặng hạt, xa xa có tiếng sấm rền vang đến càng khiến cho khung cảnh trước mặt lũ nhóc thêm kinh hoàng.
A! Nếu cha mẹ của nó biết thì sao nhỉ? Liệu khuôn mặt của lũ người lớn ấy sẽ thế nào khi thấy con mình nằm sõng soài trên vũng máu với con dao đâm xuyên lồng ngực? Tò mò quá đi!… Và rồi, chẳng phải để cho lũ nhóc ấy chờ lâu, cái bóng đen trải dài từ phía sau chúng đã xuất hiện.
Một người phụ nữ thanh tú, dáng người cao ráo, khuôn mặt bị che đi bởi một tấm vải thưa màu đen lại càng khiến bà thêm thần bí. Mái tóc của cô cũng mang màu tựa màu tro, nhưng cô không bận một bộ váy trắng, cô mang trên mình cái đầm đen tang tóc, một màu đen kinh dị.
Là mẹ của cô bé ấy.
Đám nhóc côn đồ trông thấy thế, đôi chân lập tức run lẩy bẩy, từng đứa tránh ra và lùi ra sau đứng dưới màn mưa.
“Không phải do chúng cháu! Là thằng nhóc kia đấy!” Đứa cao lều khều trong nhóm chỉ điểm.
Bà ta không ngẩng lên nhìn, chỉ dán mắt vào cái thây lạnh lẽo nằm co ro trên mặt sàn, khuôn mặt không chút biến sắc. Rồi, thình lình đằng sau bà lại thêm một người nữa. Người này dáng dấp nhỏ con, mặc bộ váy thêu hoạ tiết cầu kì, tay nắm chặt cây trượng gỗ đính đá, mái tóc vàng và bộ váy dần thấm mưa.
“Tiểu thư!” Cô ta chạy đến, cây quyền trượng nằm lăn lóc dưới mái hiên. Mặc cho máu bám lên tay, cô ta vẫn bế cô gái nhỏ lên, đôi mắt đau lòng khôn xiết.
“… Là lỗi của tôi, thưa phu nhân… Xin hãy trừng phạt tôi…”
“Chưa đến lượt ngươi mở miệng.”
Giọng nói ấy lạnh tựa băng xanh, rờn rợn như cơn gió lạnh phương bắc. Nó không chứa chan cảm xúc gì, dù con gái của bà đã không còn thở.
“Chuyện này là nhóc làm thật sao?”
Trong một cái chớp mắt ngắn ngủi, bóng dáng phủ kín màu đen ấy đã đứng trước ngưỡng cửa nhà cậu bé, nắm nhẹ lấy những lọn tóc của cậu.
Đôi mắt nhỏ nhắn ấy nói lên tất cả, không giấu diếm bất cứ điều gì. Và với ánh nhìn sắc lạnh ẩn sau bức màn thưa, bà ta túm tóc cậu, quăng mạnh đi, làm gãy hàng rào, bay xuyên qua ô cửa kính của ngôi nhà phía đối diện.
Sau tiếng loảng xoảng của thuỷ tinh rơi vỡ, có một tiếng hét thất thanh, một tiếng khóc oe oe… Trong đống đổ nát, máu đã lăn dài trên trán của cậu nhóc.
Cơ thể của nó bay ngang tầm mắt của lũ côn đồ kia. Tên đại ca vốn là thằng nhóc hiểu chuyện, nó không như ba đứa còn lại, kêu gào inh ỏi làm náo động cả xóm làng, nó chỉ lặng lẽ trơ trơ con mắt quỳ xuống, mặt lấm bùn đất mà van lạy.
“Không phải làm thế…”
Phu nhân kia đã khuỵu gối xuống, đỡ cậu nhóc dậy. Ánh mắt bà thoáng hiện ra chút thương cảm và thấu hiểu, dang rộng vòng tay ôm bốn đứa trẻ vào lòng.
Lũ chúng nó ai nấy cũng vừa ngơ ngác, vừa mừng thầm. Nhưng ở đằng sau, người phụ nữ tóc vàng chỉ lẳng lặng quay đi, đôi đồng tử màu hổ phách không dám đối diện với sự thật.
“Cảm ơn c-” Một tiếng cảm tạ đứt quãng, tiếng sụt sịt của lũ trẻ theo đó mà biến mất. Khi quay lại, đôi mắt ấy không lấy làm chút ngạc nhiên, chỉ thấy có bốn đống tro đang dần trộn lẫn với nước và bùn, phủ một màu xám đen lên nền đất.
Cảnh tượng ấy đã bị người dân nhìn thấy. Họ đều chung một biểu cảm, đều lặng thinh mà kinh hồn bạt vía. “Đó có còn là con người không? Tại sao lại làm vậy với lũ trẻ?” Hai câu hỏi đó thi nhau vọng qua vọng lại trong đầu họ.
Từ một con hẻm nhỏ bên trái, một người đàn bà khác chạy ra, mắt đẫm lệ và nước mưa, tóc rủ xuống xuề xoà và bộ trang phục lôi thôi nhếch nhác. Bà ta cúi xuống, những ngón tay cố nhặt nhạnh từng mẩu tro đã bết lại dưới lớp nước mưa, lợn cợn sỏi đá. Bà liền ngã nhoài, đầu gối đập mạnh vào nền đất đầy bùn lầy, nhưng không có vẻ gì là bà để ý. Một tiếng nấc nghẹn ngào thoát ra, hòa lẫn với tiếng mưa rơi lộp độp trên mái nhà gần đó.
“Ôi con tôi… con tôi!”
Đột nhiên, một ánh chớp lóe lên, rọi sáng con hẻm nhỏ trong thoáng chốc. Trong ánh sáng ấy, người ta có thể thấy rõ hơn khuôn mặt bà – hốc hác, đầy tuyệt vọng, đôi mắt thâm quầng, trống rỗng, và cái nhìn như bị nuốt chửng bởi một nỗi đau vô hình. Tiếng mưa lại át đi tất cả, chỉ còn lại hình bóng gầy guộc của bà lặng lẽ ngồi đó, giữa làn nước chảy xiết.
“Về thôi, Aurelia.” Giọng nói lạnh lùng lần nữa cất lên, không cảm xúc, không niềm thương xót.
Có những người đã đứng ra ngoài hiên nhà, chứng kiến khung cảnh ấy mà cắn răng. Có những người lại gục xuống, không tin vào mắt mình. Cũng có những người đã hô hoán, buông lời lẽ chửi rủa. Đôi mắt của họ như những người tù khổ sai đã nhận nhịn quá lâu, nay dưới cơn mưa này, họ sẽ giải quyết mọi nỗi ân oán!
Từ những ngôi nhà vốn đóng kín cửa, ánh chớp và tiếng gào thét bên ngoài thu hút họ, người dân sớm đã xúm lại thành một vòng tròn quanh người đàn bà. Ai đó cất tiếng cười khẩy, lạnh lẽo và sắc như dao nhưng cũng chất chứa nỗi đau đớn sâu thẳm:
“Tao đã nói rồi, không thể tin lũ phù thuỷ được! Ngay từ ban đầu, lựa chọn quy phục chúng nó đã là sai lầm!”
Đó là một người đàn ông. Gã giơ cao cây cuốc sắt, hô hoán.
Ngay sau đó, hàng loạt tiếng hò, tiếng rủa và cả những viên đá bay đến, va vào đầu của vị phu nhân. Nhưng cô dường như không mấy bận tâm, vẫn lẳng lặng tiến tới, chân bước đi tựa đang lơ lửng như hồn ma.
Thấy ả không chống trả, họ lại càng quyết liệt, ai nấy tay cũng đã lăm lăm vũ khí, hướng ánh mắt căm phẫn vào khuôn mặt dửng dưng.
“Chắc chắn là do chúng! Cả vụ mùa thất thu năm nay cũng thế. Kể từ khi con nhỏ đó xuất hiện, bao tai hoạ đã ập lên đầu chúng ta! Nếu không phải là do bùa phép của lũ phù thuỷ thì là gì?!”
Lại thêm nhiều người khác hưởng ứng, không có ai là chùn chân, họ mỗi lúc càng tiến tới, cho đến khi hàng chục mũi dao đã găm vào thân hình mảnh mai của ả phù thuỷ… Dù là thân cận, Aurelia có trông thấy vẫn không có động tĩnh gì, cô chỉ ngậm ngùi cúi mặt nhìn vũng máu dần khô lại dưới chân.
“Lột da ả! Tra tấn ả ta! Thiêu sống ả! Phải cho chúng nó chết thật đau đớn!”
Đây vốn đã không phải chuyện lạ. Từ xưa tới nay, định kiến mà người đời dành cho phù thuỷ chưa bao giờ tàn, nó như một ngọn lửa cháy âm ỉ, chỉ chờ đến ngày được bùng lên dữ dội. Và hôm nay là một ngày như vậy, chỉ tiếc rằng…
“Nhanh lên! Trước khi ả ta làm phép…”
Leng keng, leng keng…
Dao bếp, liềm gặt, cuốc sắt… Tất thảy đồng loạt rơi xuống, tạo thành bản giao hưởng giữa mưa, sấm chớp và kim loại lạnh lẽo, còn phông nền cho bản nhạc ấy là nền đất phủ kín một màu xám xịt.
Vị phu nhân đó làm như mắt không thấy, tai không nghe. Những vết rách trên bộ trang phục cũng đã liền lại, trên cơ thể không có lấy một vết xước chứ đừng nói gì là một giọt máu. Bà ta đứng lặng người ở đó một hồi, chờ đến lúc một tia chớp xé toạc bầu trời, đánh vào gốc cây cổ thụ gần đấy, phu nhân mới cất bước.
“Về thôi, Aurelia.”
Ngày mưa tầm tã ấy đã kết thúc như vậy. Hôm đó cũng là ngày thế giới đã khóc than cho hàng trăm sinh mạng, ra đi mà không có ai hay biết. Chỉ đến khi vào một ngày khô hanh, gió đưa tàn tro bay khắp ngả đường, những con phố đông đúc người mọi khi lại chẳng có bóng ai qua lại, các vị thương nhân từ phương xa ghé thăm mới tá hoả nhận ra chuyện đã xảy đến với họ, với thị trấn nhỏ này.
Nhưng cũng từ nơi hoang toàn sặc mùi tử khí ấy, họ đã tìm thấy một đứa trẻ, hấp hối giữa lằn ranh sinh tử cùng đôi mắt mở hé mà rực cháy một ngọn lửa hoang dại.
0 Bình luận