Vol 1: Narcissistic Personality Disorder
Chương 07: Hắn đã bị ám sát
0 Bình luận - Độ dài: 5,242 từ - Cập nhật:
Anthondel, 8 năm trước.
Sau một cuộc chiến, bầu không khí xung quanh thường nặng nề và tang tóc. Ánh sáng của mặt trời dường như bị che phủ bởi những đám mây mù u ám, chỉ để lại những màn xám lạnh lẽo tỏa xuống đống đổ nát của thành phố này. Mùi khói trộn lẫn thuốc súng vẫn còn phảng phất trong không trung, nó quyện với mùi kim loại và đất cháy, tất cả hình thành nên cái cột khói cao vút nơi cuối trời. Những con đường giờ đây đã bị biến thành những vệt tối tăm, loang lổ bởi vết nứt gãy cùng đống gạch đá đổ nát. Những cánh cửa bị vặn vẹo, những mái nhà sụp đổ tạo nên một khung cảnh như đang trong một cơn mơ đáng sợ.
Những thân hình to lớn bị vùi dập bởi trận chiến ác liệt, tất cả nằm chồng chất lên nhau tạo thành một tập hợp đau khổ. Những khí giới giờ đã gỉ sét và móp méo nằm vương vãi khắp nơi, những mảnh vỡ của những phương tiện, dao kiếm, súng ống, nằm lẫn lộn với các phần cơ thể, tạo nên một cảnh tượng hỗn độn và ghê rợn.
Nói trắng ra thì đó là một núi xác chết.
Đây là thời điểm mà sâu trong nội bộ của Anthondel vừa trải qua một cuộc đại khủng hoảng mà người ta gọi là “Cuộc xâm thực thứ nhất”. Một nhóm lớn những người dân tại đây đã tập hợp nên một giáo hội có chung một tư tưởng, họ quyết tổ chức một cuộc khởi nghĩa vũ trang nhằm đòi lại quyền con người tối thiểu cho bản thân. Vì chỉ là một nhóm tự phát nên chính quyền Luzden'on sau này không đánh đồng cũng như giữ chuyện này càng kín càng tốt vì vấn đề thể diện. Dẫu đã thất bại nhưng vụ việc đã để lại một bãi chiến trường lớn cùng những thiệt hại không hề nhỏ, rất nhiều người vô tội đã bị cuốn vào.
Một người với chiếc áo choàng rách rưới đi như lướt nhẹ trên đống xác chết của những người đã tử vì đạo như muốn vẽ nên bức tranh tĩnh lặng đầy ma mị, một khung cảnh nếu nhìn về góc độ nào đó thì chính là đỉnh cao của loại nghệ thuật tăm tối. Dù có vẻ ngoài hùng dũng và bụi bặm song anh ta không hề tỏ ra một khí chất gì của sự đe dọa. Thay vào đó, một sự cao quý lạ thường toát lên từ từng bước đi của anh – các bước chân nhẹ nhàng và uyển chuyển như một vũ công trên sân khấu.
“Này! Vẫn còn sống à?
“…Cậu đoán xem.” - một tiếng trả lời được phát ra từ bên dưới.
Chàng thiếu niên với trang phục tả tơi này quỳ xuống đống xác chết gần đó, tay anh lật từng lớp đất ướt và bùn lầy, chạm vào những thân thể vô hồn nằm rải rác trên mặt đất. Anh ta chỉ dừng việc xới đống tử thi lại sau khi đã thấy được người mà mình đang tìm kiếm.
“Cậu thực sự rất lì lợm đấy.”
Cậu chàng chìa tay mình ra để giúp đồng đội thoát khỏi đống hỗn độn của cái chết. Người vừa được kéo dậy chính là một thiếu niên mảnh mai cùng mái tóc xanh rối bù, bị vấy bẩn bởi đống bùn lầy và máu tanh. Đó là Rowalt Catlinton, một kẻ đã bị ruồng bỏ kể từ khi sinh ra trên mảnh đất đáng nguyền rủa này.
Chàng thiếu niên Rowalt ngồi trên một đống gạch lớn, anh ôm trong người một quyển sách về thần học, thứ đã gắn bó với sinh mạng của anh suốt từ những ngày đầu của cuộc đời. Không biết đã là lần thứ bao nhiêu Rowalt trở về từ bóng tối với vô số thương tích cũng như khoảng trống trong tâm hồn.
Giờ đây, ánh mắt của anh chỉ đang có thể vô thức dõi theo cậu chàng vừa giúp anh. Người đó đứng trên một mô đất cao, nhìn xuống toàn cảnh thành phố với vẻ đăm chiêu, chiếc áo choàng trùm đầu rách rưới khiến cậu trông rất oai vệ. Cách cậu ta nhìn mọi thứ hiện giờ là một cái nhìn thương hại nhưng pha chút hài lòng, một cái nhìn rất đỗi bề trên.
“Trận chiến là thế đấy, mạng sống của những con người này là vô giá trị.” Người ấy cất tiếng.
“…”
“Đến phút cuối cùng, họ vẫn không thể trở thành thứ mình mong muốn.”
Rowalt chỉ biết lặng thinh, ngồi hơi nghiêng đầu mà lắng tai nghe những gì kẻ đứng trên kia nói.
“Ai cũng có những giấc mơ, hoài bão, nhưng không phải tất cả đều là người đặc biệt.”
Nói đoạn, cậu ta quay lưng để xuống nơi Rowalt đang ngồi. Từ dưới nhìn lên, trang phục của người ấy cứ như đôi cánh đen của loài quạ, một đôi cánh của địa ngục.
“Tôi muốn biết bản thân là ai trong cái thế giới này, tôi có thể làm được gì, số phận của tôi sẽ như thế nào?”
Hắn bước từng bước tới gần một cách nhẹ nhàng đầy tinh tế, cứ như đang lướt trên mặt đất vậy.
“Tôi muốn có cậu là đồng minh, chúng ta rất giống nhau đấy Rowalt.”
“…”
“Cậu là một người đặc biệt, một con người không có giấc mơ cho riêng mình. Những kẻ không có tham vọng sẽ phải phục vụ cho ước mơ của người khác cũng là lẽ thường tình. Thật kì lạ, chỉ có cậu mới có thể khiến tôi nói ra những lời này.”
Mái tóc dài màu vàng tung bay như thể một nhân vật nào đó vừa bước ra từ trong tiểu thuyết lãng mạn. Lúc đó, trước nụ cười thánh thiện của kẻ đấy, Rowalt đã thấy Vanis T. Fingard thật cao vời và lí tưởng.
Nhưng đó là câu chuyện đã xảy ra rất lâu về trước…
**********
Lại là một buổi sáng tại văn phòng của Rowato, nơi mà anh coi không khác gì cái thánh địa của mình, ít ai ngờ được rằng ẩn sâu trong kiến trúc này là vô số điều lí thú mà hiện chưa thể tiết lộ được. Vẫn là khung cảnh quen thuộc đó, Rowato ngồi trên bàn làm việc cùng đống giấy tờ còn Lilha nằm ườn lên chiếc ghế dài cùng đồ ăn vặt. Đã vài hôm kể từ cuộc gặp mặt tại quán “Hầm Mìn”, những người trong cuộc đều tránh không ai đề cập lại đến những gì xảy ra ngày hôm đó.
“Hiếm khi thấy thầy mệt mỏi như vậy.” Lilha bất ngờ nói.
Đúng là khác với mọi khi, hôm nay anh ta nhìn xuống sắc thấy rõ, gương mặt tái xanh, ánh mắt lờ đờ, mái tóc rối bù, ban nãy còn xém mấy lần ngủ gục, khó mà thấy tình trạng này ở Rowato vào thường nhật. Tấm rèm mỏng khiến cho căn phòng thiếu sáng càng làm gương mặt anh trông còn u ám hơn.
“Biết làm sao đây, hôm qua anh lại thức trắng.”
“Nói mới nhớ, tối qua thầy đi đâu cả đêm thế?”
“À, thầy đi thăm một nghệ nhân.”
Lilha cũng chẳng thèm hỏi thêm, cô bé cũng chỉ hỏi cho có chuyện chứ không thực sự quan tâm tới việc đó, thứ cô muốn biết chính là:
“Em có thể hỏi về Vanis T. Fingard không?”
Hai con mắt ngái ngủ của Rowato mở to khi nghe thấy cái tên đó, anh thoáng ngạc nhiên như vừa được bật đúng công tắc, lát sau lại vẩy bàn tay đầy chán ngán rồi đáp với giọng như hết hơi:
“Lại là hắn nữa à? Bây giờ nhớ tới cái mặt gã đó cũng khiến anh thấy phiền.”
“Không phải anh từng quen kẻ đó à?”
“Ừ thì phải, nhưng mà hồi đó anh và hắn đều khác bây giờ lắm. Tít từ cả cái hồi mà anh còn chưa gặp bé Lil cơ.”
Cơ thể không còn có thể chịu nổi cơn mệt mỏi quá độ, ông thầy trẻ này cũng ngả người ra chiếc nệm đối diện với vị trí của Lilha, tư thế anh nằm thậm chí trông còn khó coi hơn cô trợ lí của mình. Rowato hé mắt nhìn vào một tờ hóa đơn mình đang cầm trên tay trước khi vứt nó vào sọt rác rồi thở dài.
“Chắc anh sẽ ngủ một chút vậy.”
“Nhìn anh vẫn còn thoải mái thế, ngay cả khi đang bị truy sát luôn à?” Cô bé nhắc lại về lời đe dọa từ tên Fin hôm nọ.
“Ha! Kệ hắn chứ, hắn nói thế chứ đã thấy gì đâu nào? Từ đó đến giờ mọi thứ vẫn bình thường đấy thôi, không một động tĩnh gì.”
Bề ngoài tỏ vẻ là thế nhưng thực chất anh ta vẫn luôn ngầm cảnh giác từng giây từng phút, Rowato đúng là biết cách khiến người khác cảm thấy thoải mái và nhẹ nhõm hơn. Cơ mà nói thế không đúng lắm vì chẳng phải anh mới đang là người bị nhắm đến sao? Nhưng dù thế nào thì việc nghỉ ngơi rất quan trọng, khi có chuyện xảy ra thì sự tỉnh táo là vô cùng cần thiết.
“Ôi, lại nữa rồi.”
Đang định say giấc nồng thì một tiếng kêu chói tai của còi xe cấp cứu kêu lên. Tại nơi này thì không lạ gì cái âm thanh này nữa, thậm chí còn nhiều hơn số bữa ăn của bạn hằng ngày. Có đủ mọi lí do cho chuyện đó như từ bạo lực cho tới tai nạn, bệnh tật,…
“Gần đây đang có dịch trở lại thì phải.”
Rowato sau khi bị cắt ngang giấc ngủ thì cũng chẳng buồn nằm xuống nữa, anh tựa lưng vào ghế một cách uể oải mà nói vài ba câu chuyện phiếm lan man với Lilha.
“Em có thấy bầu không khí của Anthondel mấy năm trở lại đây còn ô nhiễm hơn khi trước không? Thương hàn, thổ tả hoành hành, không khác gì thời cận đại. Hồi đấy là do họ xài xe ngựa, phân ngựa nhớp nháp thải ra khắp đường phố, thời nay thì là khói bụi với khí thải.”
“Nhưng chúng ta may mắn không vô gia cư mà phải lang thang ngoài đó còn gì?”
“Đó đích thị vấn đề đó bé Lil à!” Rowato bỗng nhiên lớn tiếng.
Lilha cũng đủ khả năng để sực hiểu ra điều gì đó.
“Em thấy đó, ngay cả trong cái thành phố khép kín này cũng đã có sự phân hóa. Đây là một đô thành nơi giới trung lưu thoải mái uống trà tại phòng khách trong khi những kẻ đói nghèo vẫn đang chật vật ở Khu Đông thành phố. Mới tháng trước đã có một cuộc đại di cư lớn nhưng mà có thành đâu? Một khi đã sinh ra tại Anthondel thì việc nhập cư tại thành phố khác còn khó, huống chi đi khỏi đất nước Luzden'on này.”
“Và tất cả những điều này sẽ tạo nên một tập hợp lớn những người muốn thực hiện cách mạng để đòi lại công bằng phải không?”
“Đúng thế, em nắm bắt tốt đấy.”
“Nhưng mà anh phản đối việc đó?”
Rowato nhắm mắt nghĩ ngợi một lúc lâu để tìm câu trả lời, đây không phải một câu hỏi dễ. Anthondel và con người này luôn tồn tại một mối quan hệ vô cùng phức tạp, chính bản thân anh ta cũng không tài nào cắt nghĩa được. Đây là một dịp thích hợp để định hình lại tư tưởng.
“Đúng thế. Làm sao anh có thể nhìn mảnh đất thân yêu này tiến vào một trận chiến không thể thắng?”
“Kể cả khi tên cầm đầu kia có vẻ rất chắc chắn và nắm trong tay nhiều con bài chủ chốt à?”
“Ha ha, em không hiểu hắn rồi. Hắn chẳng tốt đẹp hay lo lắng cho quyền lợi của người dân như hắn nói đâu, hắn chỉ coi họ là những con tốt thí thôi.” Rowato cười lớn.
“Thế còn anh thì sao? Anh cũng đâu quan tâm đến mấy cái đó nhỉ?” Lilha nhìn ông sếp của mình bằng một ánh mắt phán xét.
“Thì anh đâu có bao giờ phủ nhận việc đó. Em biết rồi đấy, nơi này rất đặc biệt với anh và nó chỉ còn giá trị khi mọi thứ vẫn được đi theo quỹ đạo. Giả sử nếu cuộc cách mạng điên rồ của tên Fin có thành công, Anthondel xâm thực và đồng hóa thì mọi thứ sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Anthondel sẽ không còn là Anthondel nếu nó là tất cả mọi nơi.”
Lilha đứng dậy để đi lấy chút nước ép trong tủ lạnh, khi đang đi thì cô bé va phải một thứ gì đấy to lớn. Rowato vẫn thường khiêng về mấy thứ hổ lốn choáng chỗ để trưng bên trong nhà, thành ra căn phòng vốn rộng lớn nay lại chật chội thấy rõ. Mấy thứ này đôi lúc có giá trị, đôi lúc thì không nhưng hầu hết thì chỉ toàn đồ linh tinh. Lần này thì lại là một hình nhân giải phẫu tỉ lệ 1:1.
“Bộ thầy làm trong ngành y khoa hay gì mà lại vác cái của nợ này về?”
“Nhưng nhìn nó đẹp mà, không phải sao?”
Đúng như thế, hình nhân giải phẫu này được chế tạo tinh xảo, mang vẻ đẹp mê hoặc đến từ sự hoàn hảo trong từng chi tiết. Làn da giả mềm mại, tựa như da người thật, được tỉ mỉ tô điểm bằng các mạch máu màu đỏ thẫm và xanh lam, tạo cảm giác sống động. Các bộ phận cơ thể được lắp ghép khéo léo, từ khung xương đến các cơ bắp, đều được thiết kế với độ chính xác cao, phản ánh rõ nét cấu trúc sinh học phức tạp của con người. Ngoài ra thì nó còn được lắp thêm chức năng bật tắt trong suốt cơ thể để tiện cho việc nghiên cứu.
“Sở thích này quái dị quá.” Lilha càu nhàu.
“Nhìn rất Uncanny Valley (Thung lũng kì quái) phải không?”
Cô không nói về sự tồn tại của thứ này mà là cách Rowato để nó ngồi lên chiếc ghế từ hôm qua đến hôm nay hệt như một con người thật, việc này có gì đó rờn rợn. Uncanny Valley là một thuật ngữ gần đây rất phổ biến dùng để diễn tả một nỗi sợ bất an với những thứ gần giống con người. Lilha nhìn nó một lần nữa trước khi cố gắng giữ khoảng cách với thứ vô tri đó càng xa càng tốt.
“Đúng rồi đấy, nó không an toàn đâu nên em đừng lại gần. Nó sẽ có thể khiến em bị thương đó nha.” Rowato bằng một chất giọng dọa dẫm đùa cợt.
“Đừng đùa như thế, thứ này thực sự đáng sợ đấy.”
“Thú vị đấy, vậy tại sao em nghĩ nó đáng sợ?”
“Nó…thiếu nhất quán.” Đó là những gì nảy ra trong đầu Lilha.
Rowato gật gật đầu tỏ vẻ hài lòng với câu trả lời đó, anh đẩy cặp kính của mình lên như một nhà giáo thông thái sắp bắt đầu bài giảng của mình. Có lẽ vì đang quá kiệt sức nên thay vì diễn giải hằng đống lý thuyết trên trời dưới đất đầy phức tạp thì mọi thứ bắt đầu bằng một câu chuyện nhẹ nhàng.
“Có một điều anh phải công nhận là cái thành phố tồi tệ này chôn giấu vô số nhân tài ẩn bên trong, cách đây khoảng năm năm trước có một kĩ sư chế tạo người máy thiên tài định cư ở khu Tây tên là Jeffrey.”
“Thực sự có người như vậy ở đây luôn à?”
Trong một thế giới nơi công nghệ tiên tiến phát triển vượt bậc và dần trở thành mũi nhọn, lập trình người máy là một ngành nghề có thế được coi là đỉnh xã hội vào thời đại bấy giờ. Tập đoàn AlterTech ngoài kia luôn chú trọng gom góp những nhân tài như thế, một lời mời từ họ có thể khiến bạn đổi đời. Thật khó tin nếu có ai đó tốt nghiệp một lĩnh vực danh giá như thế mà lại chọn rúc vào cái Anthondel này, chả trách nơi đây toàn những dị nhân.
“Câu chuyện bắt đầu khi Jeffrey tạo ra một robot có hình dáng và hành vi giống hệt con người, đặt tên là Elara, hồi đó thì đây vẫn là một kĩ thuật phức tạp. Vị kĩ sư dành hàng năm trời để lập trình cho sản phẩm của mình không chỉ về mặt hình thức mà còn về cảm xúc và cách giao tiếp. Elara được thiết kế để giúp đỡ những người cô đơn, mang lại niềm vui và sự ấm áp cho cuộc sống của họ.
Ban đầu, mọi người đều yêu thích Elara. Họ cảm thấy thoải mái khi trò chuyện với cô, thậm chí xem cô như một người bạn. Nhưng càng tiếp xúc lâu, họ bắt đầu cảm thấy một sự rợn gáy, một cảm giác không thể giải thích. Hình dáng của người máy gần như hoàn hảo, nhưng vẫn có điều gì đó không đúng. Những cử chỉ và biểu cảm của cô dường như thiếu vắng sự chân thực mà con người thường có.”
“Thì vì rõ ràng đó không phải là con người mà?”
“Mọi thứ bắt đầu đi đến đỉnh điểm khi trong một buổi trình diễn sản phẩm trước công chúng. Như mọi lần, khi Elara đang trò chuyện với những vị khách thì bỗng một người trở nên hoảng loạn rồi thét lên một tiếng kinh hãi. Anh ta cứ liên tục la lớn những thứ đại loại kiểu “Thứ đó chính là con người”. Rồi dần dần đám đông xung quanh bắt đầu hùa theo, ai cũng khẳng định rằng Elara chính là con người thật sự vì cô ta trông còn con người hơn cả họ, tuy vậy thì gương mặt của họ lại tràn ngập sự lo âu và sợ hãi. Đúng vậy, Elara bằng một cách nào đó đã gây ra ít nhiều các ảnh hưởng tâm lí cho những người tiếp xúc. Suy cho cùng thì sự hoàn hảo quá mức cũng khiến con người cảm thấy ghê rợn.”
“Vậy mọi chuyện sau đó thế nào? Mà tại sao anh biết rõ về chuyện đó thế?” Lilha tò mò.
“Thì anh đã có mặt trong buổi ra mắt đó đấy. Để dẹp sự hỗn loạn từ đám đông thì mọi lịch trình hôm đó đều phải hủy bỏ. Nhưng mà ngạc nhiên là có một kẻ đã tới gặp Jeffrey để hỏi mua người máy Elara với giá cao song anh ta không chịu bán.”
“Cũng phải, dù tốt hay xấu thì đó chính là một phát minh kiệt xuất khi có thể chạm được đến người khác. Vậy là mọi thứ chỉ tới đó là hết rồi hả thầy?”
“À không, vài ngày sau thì Jeffrey được phát hiện là đã bị bắn chết còn Elara cũng biến mất. Người ta thì cho rằng kẻ ra tay có động cơ muốn cướp lấy phát minh ấy. Điều kì lạ đó nằm ở viên đạn giết chết nạn nhân, nó là từ một khẩu súng bắn tỉa lớn và đường bay thì cong vẹo phi logic, người ta đến nay thì vẫn bảo đó là do thần linh trừng trị. Vào giai đoạn cuối đời, anh ta bị kì thị không khác gì các phù thủy thời trung cổ vậy, họ có khi còn sẵn sàng đưa Jeffrey lên dàn hỏa thiêu chỉ vì coi kĩ thuật tạo ra Elara chính là tà giáo. ”
“Vậy đã tóm được hung thủ chưa?”
“Chưa đâu, nhưng gã đó là ai thì anh biết rõ, đó tên đàn ông trung niên đầu tiên đã hét lên kinh hoàng ở buổi lễ hôm đó, cũng là người đã hỏi mua, ít ra thì hắn là nghi phạm duy nhất đã bỏ trốn.”
Sau câu chuyện được nghe kể, Lilha càng cảm thấy sự bất bình thường đến từ những sản phẩm hình người nhân tạo. Nếu trên đời này tồn tại một sản phẩm người máy có ngoại hình y hệt chúng ta, thậm chí trông còn “con người” hơn cả chính chủ thì liệu sẽ thế nào? Có lẽ đó sẽ là một cuộc khủng hoảng danh tính.
“Pha cho anh ly cà phê đi Lilha, chắc uống một chút sẽ xua tan cơn buồn ngủ này.”
Cô bé thở dài một tiếng tỏ vẻ khó chịu nhưng vẫn đứng dậy đi tới nhà bếp để thực hiện mệnh lệnh. Rowato là một con người kĩ tính trong các thú vui tao nhã, anh chỉ luôn chịu uống loại cà phê được pha thủ công hay cụ thể là theo phương pháp Pour-over. Cà phê pha tay thường sử dụng hạt cà phê tươi, được xay ngay trước khi pha, việc này giúp giữ lại hương vị và độ tươi ngon cũng như có được điểm nhấn vô cùng tinh tế. Bản thân anh ta cũng là bậc thầy trong lĩnh vực này và đây cũng là một trong những thứ đầu tiên Rowato chỉ dạy cho Lilha hồi mới gặp. Chẳng mấy chốc thì chiếc ly cà phê yêu thích đã được đem ra.
“Chà, nhìn vẫn cao tay như mọi khi nhỉ? Anh sẽ nghiện mất thôi.”
“Thế mà hồi đầu anh từng nói rằng cà phê của em làm cứ như nước bùn.”
“Ủa? Hồi đó mình cay nghiệt thế hả ta?” Rowato gãi đầu rồi cười lảng tránh.
Sau khi thong thả thưởng thức vị ngòn ngọt pha chút đăng đẳng của thức uống màu nâu hoàn hảo, anh bước tới kế bên chiếc ghế cạnh bàn làm việc rồi lom khom xê dịch nó đi đôi chút một cách đáng ngờ.
“Chiếc ghế đó có vấn đề gì sao? Em thấy thầy cứ làm thế từ qua tới giờ.” Lilha tỏ vẻ khó hiểu.
“Con người không thể cứ ngồi mãi một chỗ được.” Một câu trả lời chung chung vô nghĩa.
Nói rồi, Rowato lại trở vào nhà bếp để dọn dẹp đống ly tách dẫu cho vốn đó thường là nhiệm vụ của người học trò. Lúc quay lại phòng khách, anh đã tiện tay mang theo một cuốn sách cũ với một tiêu đề khá độc đáo: “Triết học nghịch lí nhân dạng”. Bìa đã bạc màu, rách một vài chỗ, và những trang giấy vàng ố, có dấu hiệu của thời gian. Trong quá khứ, nó đã được đọc đi đọc lại tới mức tan nát. Rowato cẩn thận tỉ mỉ mỗi khi lật trang, cứ như phần giấy đó có thể rữa ra bất kì lúc nào. Trông anh lúc này không khác gì một thầy pháp đang nghiên cứu cổ thư. Mọi thứ cứ thế tiếp tục diễn ra như nó vốn thế, một không gian im lặng đến đáng sợ, thời gian cứ thế chầm chậm trôi đi.
Rồi bỗng khi Rowato lật đến một trang sách nọ, mắt anh ta sáng long lanh như vừa phát kiến ra một thứ gì đó. Như một đứa trẻ đang phấn khích, anh reo lên:
“Nè Lilha, có cái này ha…”
Chưa nói hết câu thì một tiếng động kinh thiên động địa vang lên, một tiếng “xoảng” lớn của sự đổ vỡ kèm theo tiếng “vút” xé gió. Mọi thứ cứ như là một đoạn phim giật gân vậy, việc này diễn ra quá đột ngột, một sự bất ngờ chết chóc đã được sắp đặt từ trước. Lilha với nhãn quang siêu phàm của mình nhận ra và phản ứng rất nhanh, cô bé nhìn rõ được điều vừa xảy ra hệt như một đoạn phim tua chậm. Cửa sổ của văn phòng bị vỡ thành từng mảnh bởi một viên đạn cỡ lớn, kế đến là đầu của Rowato bị xuyên thủng và xoắn nát một cách tàn bạo. Cơ thể của anh đổ gục xuống theo quán tính, không còn chút dấu hiệu nào của sự sống. Lilha dán mắt vào cảnh tượng đó, miệng nở một nụ cười ranh mãnh đầy vẻ hứng khởi trước sự ra đi chóng vánh của người thầy mình.
Rowalt Catlinton đã chết…
_
_
_
“Em còn định đứng nhìn tới khi nào nữa? Cúi xuống núp mau.”
…nhưng đó là Rowalt phiên bản hình nộm giải phẫu, thứ được đặt trên chiếc ghế trước cửa sổ từ tận hôm qua tới giờ cơ.
“Anh không nghĩ là trò trẻ con này thực sự lừa được hắn, thật không uổng công khiêng nó về vào đêm hôm qua nhỉ? Đội tóc giả, mặc thêm quần áo, cộng thêm cái mờ mờ ảo ảo từ tấm rèm mỏng là trông khá đạt. Một phần cũng phải thán phục tay nghề của người làm ra nó.”
“Vậy ra đó là lí do cho việc lâu lâu thầy cứ nhích nhích ghế ngồi của con hình nhân ấy.”
“Thì chẳng phải anh đã bảo rằng con người không thể cứ ngồi yên một chỗ à? Cái hình nộm đuổi ruồi còn không được thì sao lừa được ai.” Rowato cười đắc thắng, tay giơ ngón cái.
“Thầy thật là ranh ma. Cơ mà hắn sẽ rời đi chứ? Chúng ta còn phải nằm dưới sàn tới khi nào nữa đây?”
Cả hai duy trì tư thế nằm sấp trên sàn được khoảng hơn mười phút nữa thì mới an tâm mà ngoi đầu lên. Tháo chạy khỏi hiện trường kịp lúc cũng là một phần của công việc ám sát, nhiều khả năng tên sát thủ đã rời đi ngay lập tức ngay khi bóp cò. Xác nhận rằng nguy hiểm đã qua đi, Rowato mới dám lại gần để kiểm tra tình trạng của mô hình giải phẫu xấu số.
“Cá chắc là gã sát thủ ấy nghĩ rằng đã giết được anh, quả nhiên dưới trướng tên Fin có các xạ thủ bắn tỉa là thật. Cơ mà cái khẩu súng đó có hơi quá khủng cho công việc giết một người không?"
“Đó là một công việc đòi hỏi nhiều kĩ năng nhỉ? Chưa kể viên đạn đó là từ một khẩu súng hạng nặng.”
Đúng như Lilha nói, không như các bộ phim hành động của Mĩ thì trên thực tế, việc sử dụng thành thạo được một khẩu súng bắn tỉa đòi hỏi một nền tảng kĩ năng cũng như luyện tập khắc nghiệt. Tuy vậy, phát hiện kế tiếp đây của Rowato mới thực sự gây sốc:
“Có gì đó không đúng đấy bé Lil à.” Anh cẩn thận quan sát phần đầu đã dính đạn của hình nhân.
“Nó không có…”
“Phải, chúng ta không tìm thấy lỗ đạn trên tường. Đáng ra với một viên đạn xuyên phá cỡ lớn như thế thì…”
Rowato ngập ngừng một lúc rồi câm nín hẳn, anh ôm cái đầu của mô hình rồi đứng hình, đó là một điều vô cùng dị thường. Lát sau, cái đầu được tháo ra rồi đưa qua cho Lilha xem, cô bé cũng vô cùng bàng hoàng. Viên đạn khi đang đâm thẳng vào trong hộp sọ thì đã đổi quỹ đạo theo hình gấp khúc một cách phi vật lí, tạo ra một đường chữ L.
“Đường đạn đang xuyên thẳng thì lại đổi hướng chin mươi độ? Chuyện quái quỷ gì thế này?” Rowato tự hỏi.
Và như một lẽ tất nhiên, họ cuối cùng đã tìm ra được lỗ đạn, nó nằm trên bức tường một cách im lìm đầy bí hiểm tại một vị trí chệch đi rất nhiều so với nơi đáng ra nó nên nằm.
“Một viên đạn ma thuật?”
“Không đâu, cái đó chỉ đúng với những đường đạn được tận dụng lực phản xạ. Cái trò này thì phải gọi là viên đạn của quỷ mới phải, chỉ có Esper mới đủ sức làm được.”
“Một đường bay cong vẹo…” Lilha lẩm bẩm, hình như cô thấy những đặc điểm này có gì đó quen thuộc.
“Chỉ có một kẻ làm được điều này mà anh từng biết. Nhìn đầu đạn đặc chế riêng này đi, không lẫn vào đâu được.” Và câu trả lời của Rowato trùng khớp với những gì cô bé trợ lí đang suy đoán. “Kẻ giết hại Jeffrey.”
“Làm sao thầy có thể chắc như thế? Nhỡ đâu chỉ là sự trùng hợp?”
“Bản thân anh có những thông tin quan trọng mà kể cả em cũng không hề biết đấy Lil à. Anh đã theo dấu tên này cũng lâu rồi.”
“Thế, người đó bây giờ lại là đồng minh của Fingard à?”
“Có vẻ là như vậy. Mà không, tốt nhất là như vậy. Chúng ta đã có một đầu mối giá trị, anh biết có một người am hiểu về việc chế tạo đầu đạn, từ đó có thể dễ dàng truy ra kẻ đã đặt làm thứ này.” Rowato mân mê viên đạn xoắn ốc ấy.
“Thầy trông có vẻ hăng hái đấy, nhưng em nghĩ thầy nên đi chợp mắt một chút thì hơn.”
Lilha quan ngại về thể trạng hiện tại của thầy mình, trông anh ta không khác gì đang cố gồng mình để giữ bản thân mình được tỉnh táo. Bất chấp lời khuyên nhủ đó, Rowato chỉ cười tươi rói trong khi sửa soạn bản thân một bộ đồ hóa trang mới để tiện cho việc ra ngoài an toàn. Một vở diễn mới sắp được ra mắt với chúng ta. Ngay lúc này cơ thể của Rowato cứ như vừa được rót thêm năng lượng, mọi mệt nhọc đều tan biến, một liều thuốc tinh thần của những người nghiên cứu thực tế.
“Anh không thể chờ được cảnh sẽ tóm được tên đó, hắn sẽ phải trả giá vì đã làm việc cho Fin cũng như ý đồ ám sát của hắn. Trên hết là gã đó sẽ giải đáp được một trong những câu hỏi đã ám ảnh anh nhiều năm qua, về động cơ, về lí do khiến hắn làm mọi thứ vì Elara. Đó sẽ là một nguồn tài liệu nghiên cứu cực kì quý giá và hiếm hoi về con người với người nhân tạo, có khi lí thuyết về Uncanny Valley sẽ tiến thêm một bước mới.” Rowato phấn khích tột độ như vừa mới cắn nhầm thứ gì.
“Nghe tuyệt thật nhỉ?” Lilha hai mắt tròn xoe đầy háo hức như vừa bị lây theo.
“À còn một chuyện nho nhỏ về tên đó.”
“Là gì vậy thầy?”
“Là gã phải đền cái cửa kính, con hình nhân đắt tiền cùng cái lỗ trên tường chứ còn gì nữa!”
0 Bình luận