Lord of Mysteries
Ái Tiềm Thủy Đích Ô Tặc
  • Bạn phải đăng nhập để sử dụng bookmark
Tùy chỉnh

Tập 02 - Tên Hề (2)

Chương 10: Nỗi Oán Hận Của Hayley

8 Bình luận - Độ dài: 7,191 từ - Cập nhật:

Translator: Kouji

✫ ✫ ✫

Phòng ngủ của ngài Deweyville rộng hơn cả phòng khách cộng phòng ăn nhà Klein. Nó gồm chỗ đặt giường, không gian tiếp khách, phòng thay đồ, phòng tắm và khu vực làm việc có giá để sách, được bài trí một cách tinh xảo, từng chi tiết nhỏ đều toát lên vẻ xa hoa.

Nhưng với Klein, nơi này rất thiếu ánh sáng tự nhiên, có vẻ tối tăm, nhiệt độ cũng lạnh hơn bên ngoài vài độ.

Đồng thời, anh loáng thoáng nghe được tiếng rên khóc thảm thương của một kẻ hấp hối bên tai. 

Định thần nhìn kĩ lại, anh chợt nhận ra mọi thứ đã trở lại bình thường: căn phòng tràn ngập ánh nắng chói chang, nhiệt độ vừa phải, không quá cao hay quá thấp; cảnh sát, vệ sĩ và quản gia đứng xung quanh đều lặng yên không nói một lời.

Chuyện này… Anh nghiêng đầu nhìn về phía chiếc giường cổ điển lộng lẫy. Ở đó, những đôi mắt mờ ảo ẩn hiện trong bóng tối, giống như lũ thiêu thân không sợ chết lượn lờ cạnh ngọn đèn khí ga.

Khi anh từng bước từng bước tiến lại gần, hình ảnh ấy lại biến mất khỏi linh thị của Klein.

Không phải một oan hồn thông thường, càng không phải là ác linh, rốt cuộc nó là thứ gì? Klein cau mày, nhớ lại những kiến thức huyền bí mình đã học được trong suốt thời gian qua.

Dưới cái nhìn của anh, nếu nhiệm vụ này được giao cho “Người Nhặt Xác”, “Kẻ Đào Mộ” hay “Người Thông Linh” thì họ sẽ dễ dàng giải quyết được nó. Rõ ràng, đây không phải lĩnh vực mà “Nhà Bói Toán” am hiểu nhất.

Klein cố nén ý định mở hướng điều tra bằng phương pháp bói toán, đưa mắt nhìn xung quanh, tìm kiếm một vài dấu vết để xác minh phỏng đoán của mình.

"Anh thanh tra..." Ngài Deweyville ngập ngừng hỏi, "Anh có phát hiện được điều gì không?"

“Nếu mọi chuyện dễ dàng như vậy thì các đồng nghiệp của tôi sẽ không đợi đến bây giờ.” Klein khách sáo đáp, vô thức liếc nhìn nhà từ thiện.

Anh đang định chuyển hướng tầm mắt, thì đột nhiên phát hiện một cái bóng trắng phản chiếu trong tấm gương ở sau lưng ngài Deweyville. Không, đó là vô số bóng người méo mó màu trắng nhạt đang chồng lên nhau mới đúng!

Cái bóng vụt qua, tiếng thổn thức mơ hồ như vẳng đến tai Klein từ rất xa, từ rất gần.

Anh thở một hơi thật dài để trấn an bản thân, xoa dịu cảm giác sợ hãi đến suýt nữa thì rút súng vừa nãy.

Cứ đề cao linh cảm, mở ra linh thị thì sớm muộn cũng phát điên… Klein tự chế giễu bản thân để giải tỏa căng thẳng trước khi chuyển sự chú ý sang ngài Deweyville.

Lần này, anh phát hiện ra một điều khác biệt.

Khi ở trong căn phòng này, chung quanh ngài Deweyville thỉnh thoảng lại xuất hiện một cái bóng nhờ nhờ méo mó, làm cho ánh sáng trở nên ảm đạm.

Mỗi lần cái bóng xuất hiện thoáng qua đều kèm theo tiếng rên khóc mơ hồ mà người bình thường khó có thể phát hiện được.

Vì bây giờ đang là ban ngày, nên người bình thường trong trạng thái bình thường mới khó có thể nghe thấy nó? Klein trầm ngâm gật đầu.

Anh đã có nhận định sơ bộ về trường hợp này: Thứ ám ảnh ngài Deweyville chính là nỗi oán hận, là linh tính còn sót lại được đúc kết từ những cảm xúc mạnh mẽ không thể xua tan của con người khi đứng trước cửa tử!

Nếu nỗi căm hờn cùng linh tính còn sót lại tiếp tục tích tụ thêm một thời gian nữa, chúng sẽ mạnh hơn gấp mấy lần, biến thành một hung linh đáng sợ.

Tuy nhiên, ngài Deweyville là một nhà từ thiện nổi tiếng. Ngay cả người soi mói như Benson cũng phải nể phục ông. Tại sao ông ta lại bị nhiều nỗi oán hận trước khi chết đeo bám như vậy? Chẳng lẽ ông ta là một kẻ hai mặt? Hay đây là thủ đoạn của một Kẻ Phi Thường xấu xa nào đó? Klein nghĩ đến mọi khả năng có thể xảy ra.

Anh cân nhắc một chút rồi nhìn gương mặt ngài Deweyville và hỏi: "Thưa tước sĩ, tôi muốn hỏi ông một vài vấn đề.”

“Anh hỏi đi.” Deweyville có vẻ suy nhược mệt mỏi ngồi xuống.

Klein sắp xếp ngôn ngữ trước khi nói: “Mỗi lần rời khỏi đây để đến những nơi mới, chẳng hạn như vùng quê hay Backlund, ông sẽ nhận được sự yên bình ngắn ngủi kéo dài ít nhất đến nửa đêm? Sau đó, tình hình dần dần xấu đi, ngày càng trở nên tồi tệ hơn, đến mức mà ông có thể nghe được tiếng rên khóc cả vào lúc ngủ trưa?”

Đôi mắt khép hờ của Deweyville lập tức mở to. Màu xanh trong mắt ông có chút sáng ngời: “Đúng thế, anh đã tìm được nguồn gốc vấn đề rồi sao?” Nói xong, ông mới nhận ra rằng trình trạng mất ngủ kéo dài và trạng thái tinh thần kém đã khiến ông hoàn toàn quên báo cho cảnh sát một manh mối quan trọng như vậy!

Thấy câu hỏi của Klein nhận được câu trả lời là đúng, thanh tra Tolle nhẹ nhõm cả người. Ông biết Kẻ Gác Đêm đã tìm thấy manh mối.

Viên hạ sĩ Gate thì ngạc nhiên và tò mò, không khỏi nhìn chuyên gia tâm lý Klein vài lần.

“Nó trùng khớp với đặc tính dần dần ám ảnh và tích tụ từng chút một của nỗi oán hận.” Klein về cơ bản đã xác định được nguyên nhân sau khi nhận được hồi đáp.

Hiện tại, anh có hai cách giúp Deweyville rũ bỏ gánh nặng. Một là lập bàn thờ xung quanh đối phương, dùng ma thuật nghi lễ để quét sạch nỗi oán hận của người chết. Hai là sử dụng các phương pháp huyền bí khác truy tìm căn nguyên của vấn đề và giải quyết nó từ gốc rễ.

Xét tới quy tắc “cố gắng không để người bình thường biết đến sự tồn tại của sức mạnh phi thường”, Klein quyết định thử biện pháp thứ hai trước tiên. Nếu nó không có hiệu quả thì anh sẽ tính tới chuyện cầu nguyện Nữ thần.

“Thưa tước sĩ, bệnh của ông là bệnh tâm lí, là vấn đề về tinh thần.” Với vẻ chững chạc đàng hoàng, anh bắt đầu lừa dối ngài Deweyville.

Ngài Deweyville nhíu mày: "Ý anh là tôi mắc bệnh tâm thần và cần phải vào nhà thương điên?”

"Không, nó không nghiêm trọng như vậy. Trên thực tế thì hầu hết mọi người đều có vấn đề tâm lí và tinh thần, không ít thì nhiều." Klein thuận miệng an ủi một câu, "Cho phép tôi tự giới thiệu lại một lần nữa, tôi là một chuyên gia tâm lí của Sở Cảnh sát quận Awwa."

"Chuyên gia tâm lí học?" Deweyville và quản gia nhìn thanh tra Tolle, người mà họ quen thuộc.

Tolle nghiêm túc gật đầu, xác nhận đó là sự thật.

"Được rồi, anh cần tôi làm gì để trị liệu? Hơn nữa, tôi không hiểu tại sao quản gia, vệ sĩ và người hầu của tôi cũng nghe thấy tiếng rên khóc." Deweyville nắm gậy chống bằng cả hai tay, bối rối hỏi.

Klein trả lời một cách chuyên nghiệp: "Sau khi giải quyết xong việc này thì tôi sẽ giải thích điều đó cho ông.

“Bây giờ, phiền ông hãy để quản gia, người hầu và vệ sĩ ra ngoài. Thanh tra Tolle, hạ sĩ Gate, mời hai người cũng ra ngoài cho. Tôi cần một môi trường yên tĩnh để thực hiện quá trình điều trị sơ bộ.”

“Điều trị bằng ma thuật.” Thanh tra Tolle thầm bổ sung giúp Klein trước khi gật đầu với ngài Deweyville.

Sau mười mấy giây im lặng, ngài Deweyville nói: "Cullen, hãy dẫn đường và để họ chờ ở phòng khách tầng hai."

"Vâng thưa ngài." Quản gia Cullen không phản bác, bởi người đưa ra yêu cầu là một sĩ quan cảnh sát chính thức, một thanh tra tập sự kiêm chuyên gia tâm lí học.

Khi từng người từng người rời khỏi phòng và đóng kín cửa, Klein nói với ngài Deweyville có mái tóc vàng sẫm cùng đôi mắt xanh: “Tước sĩ, ông hãy nằm xuống giường, thư giãn và cố gắng chìm vào giấc ngủ.”

“Tôi hiểu rồi.” Deweyville treo áo khoác cùng mũ lên giá, chậm rãi đi đến giường và nằm xuống.

Klein kéo hết các tấm rèm lại, khiến căn phòng trở nên tối om.

Anh tháo mặt dây chuyền trên tay, nhanh chóng sử dụng con lắc cảm xạ để xác định qua tốt xấu, sau đó ngồi xuống chiếc ghế bập bênh đặt cuối giường, vẽ quả cầu ánh sáng trong tâm trí và bước vào trạng thái nhập định, để thế giới tâm linh mở rộng trước mắt mình.

Ngay sau đó, anh tựa người vào lưng ghế, thả mình vào giấc ngủ, mặc cho “Thể tinh linh” tiếp xúc với bên ngoài.

Anh đang sử dụng kỹ thuật bói mộng để giao tiếp với nỗi oán hận ám ảnh ngài Deweyville trong một môi trường tâm linh tương tự như giấc mơ.

Chỉ có giao tiếp mới có thể lấy được câu trả lời và giải quyết vấn đề!

Ô ô ô! Tiếng nức nở buồn thương văng vẳng bên tai Klein, anh nhìn thấy những hình bóng trong suốt màu trắng nhạt lần lượt hiện ra xung quanh mình.

Ô ô ô! Khi những tiếng rên rỉ đau đớn truyền đến, Klein vừa mới gắng gượng lấy lại khả năng tư duy đã vươn tay phải ra và chạm vào một trong số chúng.

Đột nhiên, những bóng hình ấy lao vào anh như những con thiêu thân lao đầu vào lửa.

Hình ảnh trước mắt Klein bỗng nhòe đi. Đầu anh dường như bị tách làm đôi. Một nửa thì bình tĩnh quan sát, trong khi nửa còn lại nhìn vào một “tấm gương”.

Trong gương, một cô gái trẻ có thân hình cao lớn mặc quần áo công nhân đang bước đi giữa nhà máy đầy bụi bặm. Đầu nhói lên từng cơn. Thị lực thường mơ hồ. Thân thể ngày một gầy gò. Dường như có ai đó đang gọi cô là Charlotte, nói rằng cô mắc chứng cuồng loạn. 

Chứng cuồng loạn? Cô nhìn vào gương, trông thấy một đường màu xanh mờ nhạt trên nướu răng mình.

Ống kính chuyển sang một cảnh khác. Lần này, Klein đã biến thành một cô gái có tên Mary.

Cô gái trẻ trung đầy hoạt bát ấy cũng đi lại trong nhà máy sản xuất chì.

Đột nhiên, nửa khuôn mặt của cô bắt đầu co giật liên tục, kéo theo đó là cánh tay và chân cùng bên.

"Cô ấy bị động kinh." Khi toàn thân co quắp, cô nghe thấy ai đó nói.

Cô co giật rồi ngã xuống. Cơn co giật càng lúc càng dữ dội. Cuối cùng, cô mất ý thức.

Một cô gái khác xuất hiện. Cô có vẻ rầu rĩ không vui, lang thang trên phố giống như một kẻ điên, thậm chí còn bị rối loạn ngôn ngữ.

Cô ấy bị đau đầu dữ dội, những đường màu xanh xuất hiện trên nướu răng của cô, thỉnh thoảng, cô lại bị co giật.

Bác sĩ nói với cô rằng: "Lafayette, cô đang bị ngộ độc chì."

Vị bác sĩ nhìn cô với vẻ thương hại, nhìn cô lên cơn co giật mấy lần, nhìn sự tỉnh táo dần trôi khỏi mắt cô.

Hết cảnh này đến cảnh khác hiện lên trong đầu Klein. Anh nửa chìm đắm trong đó, nửa bình tĩnh quan sát.

Chợt, anh hoàn toàn hiểu được chuyện gì đã xảy ra với những cô gái này: Họ là những nữ công nhân đã tiếp xúc lâu dài với chì trắng và chết vì ngộ độc chì. Mà ngài Deweyville lại sở hữu một nhà máy sản xuất chì và hai nhà máy sản xuất đồ sứ. Tất cả đều thuê lao động nữ với tiền công rẻ mạt!

Klein lặng lẽ dõi theo tất thảy mọi thứ, cảm thấy vẫn còn một điều chưa được làm sáng tỏ:

Những oán hận trước khi chết ấy rất nhỏ. Dù số lượng đông đảo đến đâu cũng không thể ảnh hưởng hiện thực hay tác động đến ngài Deweyville. Trừ phi có một nỗi căm hờn cực kỳ mạnh mẽ, cực kỳ dai dẳng đã liên kết tất cả chúng với nhau, biến chúng thành một.

Đúng lúc này, anh trông thấy một cô gái khác.

Cô gái còn chưa đầy mười tám ấy đang bôi men sứ lên đồ gốm trong nhà máy sứ.

“Hayley, cháu thấy dạo này thế nào, có bị đau đầu không? Nếu đau quá thì nhớ bảo cô biết, ngài Deweyville đã quy định rằng những người bị đau đầu nghiêm trọng không được tiếp xúc với chì nữa và phải rời khỏi nhà máy.” Một người phụ nữ đứng tuổi hỏi, giọng quan tâm.

Hayley sờ trán, cười đáp: "Chỉ một chút thôi ạ. Cháu không sao."

“Nếu mai mà bị đau hơn thì phải nói cho cô đấy.” Người phụ nữ đứng tuổi dặn dò.

Hayley đồng ý. Về tới nhà, cô thỉnh thoảng lại đưa tay day trán.

Cô thấy bố mẹ và anh mình quay về với gương mặt u sầu.

“Cha và anh con đã thất nghiệp…” Mẹ cô vừa lau nước mắt vừa nói.

Cha và anh trai cô cúi đầu, nhỏ giọng bảo: “Chúng tôi sẽ tìm việc ở bến cảng.”

“Nhưng chúng ta thậm chí còn không có tiền mua bánh mì cho ngày mai. Có lẽ chúng ta sẽ phải chuyển đến nơi tận cùng của Đường Dưới mất thôi…” Mẹ Hayley nhìn cô với đôi mắt đỏ hoe, “Bao giờ con nhận được lương? Nó là 10 Saule đúng không?”

Hayley lại bóp trán: “Vâng, thứ bảy, thứ Bảy ạ.”

Cô ấy không nói gì nữa, giữ im lặng như mọi khi. Khi tới nhà máy vào hôm sau, cô nói với trưởng ca sản xuất rằng mình không bị đau đầu, không có vấn đề gì.

Cô mỉm cười, mỗi ngày đi bộ năm cây số để đi làm, rồi lại đi bộ năm cây số để về nhà. Càng ngày, động tác xoa bóp trán của cô càng thường xuyên hơn.

“Cha và anh vẫn chưa tìm được việc ạ?” Khi nhìn miếng bánh mì đen nhúng trong bát súp, Hayley không thể không hỏi anh trai cùng cha mình.

Cha cô buồn rầu đáp: “Gần đây, nền kinh tế đang đình trệ, nhiều nơi đều cắt giảm biên chế, ngay cả bến cảng cũng chỉ hoạt động một ngày, nghỉ một ngày. Một tuần bố chỉ có thể kiếm được 3 Saule 7 Penny.”

Hayley thở dài, không nói gì nữa, chỉ lặng lẽ giấu bàn tay trái đột nhiên bị co giật của mình. 

Sáng hôm sau, cô tiếp tục đi làm. Mặt trời dần ló dạng, đường phố ngày một tấp nập.

Đột nhiên, cô lên cơn co giật toàn thân. Cô ngã xuống lề đường, miệng sùi bọt mép.

Hayley nhìn lên bầu trời, tầm nhìn bắt đầu mờ đi. Cô trông thấy người đến kẻ đi, trông thấy có người lại gần cô, trông thấy một chiếc xe ngựa chạy qua và biểu tượng chim bồ câu trắng đang sải cánh như muốn bay lên của gia tộc Deweyville.

Cô cố gắng há to miệng, nhưng không thể phát ra âm thanh.

Vì vậy, cô ấy không nói điều gì, im lặng như biết bao lần khác. Chỉ khác là, cô đã chết.

Hình ảnh bắt đầu biến dạng, trở nên hư ảo rồi biến mất.

Klein thoát khỏi trạng thái mơ màng, đôi mắt đã thích nghi với bóng tối trong phòng.

Anh hiểu rằng với 1 Bảng 10 Saule, tức là 30 Saule mỗi tuần, anh trai Benson của anh đã rất vất vả để nuôi nấng Klein cùng Melissa theo tiêu chuẩn bình dân.

Anh cho rằng phần lớn công nhân có thể kiếm được 20 Saule mỗi tuần.

Anh từng nghe Melissa kể về những gia đình có năm, bảy thậm chí là mười miệng ăn chen chúc trong mỗi căn phòng ở Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt.

Anh đã học được từ Benson rằng nền kinh tế của vương quốc đã rơi vào tình trạng suy thoái trong vài tháng qua do tình hình ở Nam Lục địa.

Anh biết một người giúp việc được bao ăn bao ở có lương 3 Saule 6 Penny đến 6 Saule mỗi tuần.

Klein duỗi tay, bóp ấn đường, thật lâu không lên tiếng, mãi cho đến khi ngài Deweyville nằm trên giường mở miệng hỏi: "Anh thanh tra, anh không định nói gì sao? Những bác sĩ tâm lí mà tôi từng gặp luôn chọn lúc này và hoàn cảnh như bây giờ để nói chuyện với tôi.

“Có điều, tôi thực sự cảm thấy bình yên. Tôi gần như ngủ thiếp đi, nhưng không hề nghe thấy bất kỳ tiếng rên khóc mơ hồ nào.

“Anh làm cách nào vậy?”

Klein dựa vào lưng ghế bập bênh. Thay vì trả lời, anh nhẹ nhàng hỏi: “Tước sĩ, ông có biết về chứng ngộ độc chì không? Ông biết chì nguy hiểm như thế nào chứ?”

Deweyville nằm trên giường lặng đi trong vài giây trước khi đáp: "Trước đây tôi không biết chuyện đó, sau này mới biết. Ý anh là, vấn đề tâm lý, hoặc có thể nói là bệnh tâm thần của tôi là do cảm giác áy náy, là do tôi cảm thấy có lỗi với những nữ công nhân chế biến chì và tráng men sao?” Không đợi Klein đáp lại, ông đã chủ động trả lời, tựa như nắm chắc quyền chủ động đàm phán: “Đúng thế, tôi từng cảm thấy có lỗi với họ. Thế nhưng tôi đã sớm đền bù cho họ rồi. Lương tuần của công nhân làm chì và sứ ở Backlund không quá 8 Saule. Nhưng ở đây, tôi trả cho họ 10 Saule, thậm chí còn nhiều hơn.

“Rất nhiều người chỉ trích tôi vì hành động đó, nó làm họ có vẻ thiếu đạo đức, khiến họ khó tuyển dụng lao động hơn. Nếu không phải do 《 Dự luật Ngũ cốc 》 bị hủy bỏ, làm không ít nông dân phải bỏ ruộng lên phố kiếm ăn thì họ sẽ phải tăng lương theo tôi rồi.

“Tôi cũng nói với quản đốc xưởng rằng không để cho những công nhân thường xuyên cảm thấy nhức đầu và bị mờ mắt tiếp xúc với chì. Nếu ai mắc bệnh quá nặng có thể xin viện trợ từ quỹ từ thiện của tôi.

"Tôi nghĩ mình đã làm được đủ nhiều."

Klein nói bằng giọng đều đều: "Thưa tước sĩ, đôi khi ông không thể tưởng tượng được mức lương quan trọng như thế nào với người nghèo đâu. Chỉ cần mất việc trong một hoặc hai tuần, gia đình họ có thể bị tổn thương sâu sắc và rơi vào cảnh khốn cùng không thể cứu vãn nổi.”

Anh dừng lại một lát trước khi hỏi: "Có một điều khiến tôi rất tò mò, tại sao một người giàu lòng bác ái như ông lại không lắp đặt thiết bị chống bụi và nhiễm độc chì trong nhà máy?"

Deweyville nhìn lên trần nhà, mỉm cười chua chát: "Điều đó sẽ độn chi phí lên tới mức mà tôi không thể chịu nổi, khiến tôi mất khả năng cạnh tranh với những nhà máy sản xuất sứ và chì khác. Tôi đã không còn quá để ý tới lợi nhuận trong lĩnh vực này, thậm chí còn sẵn sàng chi tiền trợ cấp, nhưng làm vậy thì có ích gì chứ? Nó chỉ giúp được cho một số ít người lao động chứ không thể trở thành tiêu chuẩn của ngành và thúc đẩy sự thay đổi.

"Điều đó chỉ dẫn đến việc tôi phải bỏ tiền túi ra để nuôi người khác mà thôi. Tôi còn nghe nói rằng, một số nhà máy đã lén lút sử dụng nô lệ để giảm thiểu chi phí.”

Klein đan tay vào nhau, mở miệng sau một lúc im lặng: "Tước sĩ, vấn đề tâm lí của ông bắt nguồn từ những áy náy này. Ngay cả khi ông tin rằng chúng sẽ phai nhạt và biến mất theo thời gian. Lúc đầu, nó không gây ảnh hưởng rõ ràng. Nhưng một khi gặp phải kích thích, toàn bộ vấn đề sẽ đồng thời bộc phát.”

"Kích thích? Tôi không biết chuyện nào như vậy.” Deweyville nửa ngờ vực nửa chắc chắn đáp.

Klein để thân thể đung đưa theo nhịp ghế, giải thích với giọng nhẹ nhàng: “Thực ra khi nãy ông đã ngủ được vài phút và nói với tôi một điều.”

“Anh đã dùng liệu pháp thôi miên?” Deweyville suy đoán theo thói quen và đưa ra một kết luận.

Klein không khẳng định lại. Thay vào đó, anh vào thẳng chủ đề: "Ông từng gặp một nữ công nhân chết trên đường đi làm khi đang ngồi trên xe ngựa. Cô ấy mất vì bệnh ngộ độc chì. Lúc sinh thời, cô ấy từng làm việc trong nhà máy sứ của ông.”

Deweyville xoa xoa thái dương, thì thào bằng giọng không chắc chắn: "Hình như có chuyện như vậy, nhưng tôi không nhớ rõ lắm…”

Tình trạng mất ngủ kéo dài đã khiến ông rơi vào trạng thái suy nhược tinh thần. Ông chỉ nhớ mang máng rằng mình thực sự đã trông thấy cảnh tượng như vậy.

Ông suy nghĩ một lúc, cuối cùng đành từ bỏ việc nghiền ép bộ não đáng thương của mình và hỏi: “Nữ công nhân đó tên là gì?

“À, ý tôi là, tôi phải làm gì để điều trị vấn đề tâm lí của mình?”

Klein đáp với giọng trầm và ngắn gọn: “Hai điều.

"Đầu tiên, nữ công nhân chết bên đường kia gọi là Hayley Walker. Đó là những gì ông đã nói với tôi. Cô ấy là ngòi nổ chính. Vì vậy, ông cần tìm cha mẹ của cô ấy và bồi thường thêm cho họ.

"Thứ hai, công bố rộng rãi sự nguy hiểm của chì trên các tờ báo và tạp chí, để quỹ từ thiện của ông giúp đỡ nhiều công nhân bị thiệt hại hơn. Nếu ông có thể trở thành một thượng nghị sĩ thì hãy thúc đẩy việc lập pháp về phương diện này.”

Deweyville từ từ ngồi dậy và tự giễu cười: "Chuyện khác thì tôi sẽ làm, nhưng về lập pháp thì tôi nghĩ không có khả năng nào đâu. Chúng ta có vô số đối thủ cạnh tranh ở nước ngoài. Việc ban hành luật như vậy sẽ khiến toàn ngành công nghiệp này lâm vào khủng hoảng. Các nhà máy sẽ lần lượt phá sản, vô số công nhân sẽ mất việc làm. Không có trại tế bần nào có khả năng cứu được nhiều người đến thế.”

Ông từ tốn bước xuống giường, chỉnh lại cổ áo và nói với Klein: “Hayley Walker, phải không? Tôi sẽ nhờ Cullen lập tức đến nhà máy sứ lấy thông tin và gặp bố mẹ cô ấy. Thanh tra, mong anh có thể chờ với tôi và liên tục đánh giá trạng thái tinh thần của tôi.”

“Được.” Klein chậm rãi đứng lên, phủi phủi bộ đồng phục cảnh sát ca rô đen trắng trên người.

.

Mười một giờ sáng, trong phòng khách nhà Deweyville.

Klein ngồi một mình trên ghế sofa, lặng lẽ nhìn người đàn ông cùng phụ nữ được quản gia Cullen dẫn tới.

Hai vị khách có làn da sần sùi, trên mặt đã bắt đầu xuất hiện nếp nhăn. Người đàn ông hơi gù, trong khi người phụ nữ có một nốt ruồi dưới mí mắt.

Họ trông gần giống với những gì Klein đã thấy qua Hayley, chỉ già hơn, hốc hác hơn. Bên dưới bộ đồ cũ kỹ và rách rưới là thân hình gầy tới mức trơ xương. Nghe nói họ thậm chí còn không có đủ khả năng ở lại Đường Dưới của phố Chữ Thập Sắt nữa.

Ô ô…

Trong linh cảm của Klein, cơn gió lạnh bắt đầu quay cuồng.

Anh day day ấn đường, liếc sang ngài Ngài Deweyville. Không biết từ khi nào, một cái bóng trắng trong suốt và méo mó đã xuất hiện sau lưng ông.

"Chào… chào buổi sáng, thưa… thưa tước sĩ đáng kính." Cha mẹ Hayley câu nệ chào hỏi.

Deweyville xoa trán rồi hỏi: "Hai người là cha mẹ Hayley Walker? Cô ấy còn có một người anh trai và một em gái hai tuổi nữa đúng không?”

Mẹ của Hayley sợ sệt đáp: "Cách… cách đây một thời gian, anh… anh trai của con bé bị gãy chân khi làm việc ở bến cảng. Chúng tôi để nó ở nhà trông em."

Deweyville im lặng trong vài giây trước khi thở dài: “Tôi xin gửi lời chia buồn với gia đình vì bất hạnh mà Hayley gặp phải.”

Nghe những lời này, đôi mắt của bố mẹ Hayley lập tức đỏ hoe. Cả hai thay nhau mở miệng, rối rít nói: “Cảm ơn, cảm ơn lòng tốt của ngài.”

"Cảnh sát nói với chúng tôi rằng Hayley chết vì bị nhiễm độc chì. Là từ này đúng không? Ôi đứa con tội nghiệp của tôi, nó mới có mười bảy tuổi, luôn ít nói và quật cường.

"Ngài đã cử người đến thăm và hỗ trợ việc chôn cất con bé. Nó được táng ở nghĩa trang Raphael."

Deweyville liếc Klein. Ông thay đổi tư thế ngồi, nghiêng người về phía trước và nói bằng một giọng nghiêm túc: "Đó thực chất là sơ suất của chúng tôi. Tôi cần phải xin lỗi.

“Sau khi suy nghĩ về việc này, tôi quyết định phải bồi thường cho gia đình mình, bồi thường cho Hayley. Mỗi tuần cô ấy nhận được 10 Saule, đúng không? Một năm là 520 Saule, tức là 26 Bảng. Giả sử cô ấy có thể làm việc được ít nhất là mười năm.

“Cullen, cậu hãy đưa 300 Bảng cho bố mẹ Hayley đi.”

“3… 300 Bảng?” Cha mẹ Hayley ngây người.

Vào thời điểm dư dả nhất, tiền tiết kiệm của họ cũng không đến 1 Bảng!

Không chỉ họ, những vệ sĩ cùng người hầu có mặt trong phòng đều khiếp sợ và hâm mộ. Ngay cả hạ sĩ Gate cũng không khỏi hít một hơi thật sâu - lương tuần của anh mới vỏn vẹn 2 Bảng, còn những nhân viên cảnh sát có một chữ “V” dưới quyền Gate chỉ nhận được 1 Bảng.

Giữa sự im lặng khó tả, quản gia Cullen bước ra khỏi phòng làm việc với một bao vải căng phồng trên tay.

Người quản gia mở miệng túi, để lộ những chồng tiền mặt bên trong, có tờ 1 Bảng, tờ 5 Bảng, nhưng đa số là tờ 1 hoặc 5 Saule.

Có vẻ Deweyville đã sai người đổi sẵn tiền lẻ từ ngân hàng.

“Đây là tấm lòng của tước sĩ.” Được chủ nhân cho phép, Cullen trao túi cho cha mẹ Hayley.

Cha mẹ Hayley nhận túi tiền, dụi mắt và nhìn đi nhìn lại mấy lần.

“Không, cái này… cái này quá hào phóng. Chúng tôi không thể nhận nó.” Họ siết chặt bao vải trong tay.

Deweyville trầm giọng nói: "Đó là số tiền mà Hayley lẽ ra phải nhận được."

"Ngài… ngài thực sự là một tước sĩ cao quý và tốt bụng!” Cha mẹ Hayley liên tục cúi đầu vì kích động.

Nụ cười không thể kiểm soát được hiện lên trên mặt họ.

Họ lặp đi lặp lại những lời ca ngợi ngài Deweyville bằng vốn tính từ ít ỏi mà mình biết, khăng khăng rằng Hayley ở thiên đường nhất định sẽ biết ơn ông.

“Cullen, phái người đưa họ về, nhớ dẫn họ đến ngân hàng trước.” Deweyville thở phào một hơi và ra lệnh cho người quản gia.

Cha mẹ Hayley ôm chặt bao vải, vội vàng đi về phía cửa mà không dám nán lại một giây.

Klein trông thấy bóng dáng nhờ nhờ phía sau ngài Deweyville cố gắng vươn tay về phía họ, hy vọng rời đi cùng họ, nhưng nụ cười của hai người kia rạng rỡ một cách lạ thường, và họ không hề quay đầu lại.

Hình bóng mờ dần, cuối cùng biến mất hoàn toàn.

Trong cảm nhận của Klein, cảm giác âm u lạnh lẽo cũng tan biến theo.

Từ đầu đến cuối, tất cả những gì anh làm là lặng nhìn và không nói câu gì.

"Anh thanh tra, tôi đã cảm thấy khá hơn rất nhiều. Bây giờ anh có thể cho tôi biết tại sao quản gia, người hầu và vệ sĩ của tôi cũng có thể nghe thấy tiếng rên khóc mơ hồ đó chứ? Đây không phải vấn đề tâm lý của một mình tôi sao?” Deweyville tò mò nhìn anh.

Thanh tra Tolle, người biết sự thật đằng sau ngay lập tức trở nên khẩn trương.

Nét mặt Klein không hề thay đổi khi trả lời: "Trong tâm lí học, chúng tôi gọi hiện tượng này là hội chứng rối loạn phân ly tập thể.”

“Rối loạn phân ly tập thể?” Ngài Deweyville, người đã tiếp xúc với không ít bác sĩ tâm thần trong thời gian gần đây, lặp lại thuật ngữ mà Klein đưa ra.

Quản gia, vệ sĩ và người hầu của ông cũng rất tò mò. Tuy nhiên, họ không phát ra âm thanh nào vì chưa được chủ nhân cho phép.

Ngược lại, hạ sĩ Gate bối rối nhìn Klein như thể chưa bao giờ nghe thấy khái niệm tương tự.

Klein kiềm chế thói quen dùng đầu ngón tay gõ vào tay vịn khi chậm rãi giải thích: “Con người là những sinh vật dễ bị đánh lừa bởi giác quan của chính mình. Căn nguyên của chứng rối loạn phân ly tập thể là do những sang chấn tâm thần đa dạng và phức tạp tác động lẫn nhau trong cùng một nhóm người.”

Hàng loạt thuật ngữ chuyên ngành mà anh sử dụng đã khiến ngài Deweyville, hạ sĩ Gate cùng những người còn lại cảm thấy mơ hồ và chọn tin tưởng anh theo bản năng.

“Tôi sẽ đưa ra một ví dụ đơn giản, một trường hợp mà tôi từng xử lý. Một quý ông đã tổ chức tiệc tối rồi mời tổng cộng ba mươi lăm vị khách đến dự. Khi bữa tiệc đang diễn ra, ông ta bắt đầu cảm thấy ghê tởm, nôn mửa ngay tại chỗ, bị tiêu chảy nặng. Sau vài lần như thế, ông nghĩ rằng mình bị ngộ độc thực phẩm và chia sẻ suy đoán này cho những người khách khác khi tiến về bệnh viện.

“Trong hai giờ tiếp theo, hơn ba mươi trong số ba mươi lăm khách bị tiêu chảy, hai mươi sáu người trong số đó bắt đầu nôn mửa. Họ lập tức đổ xô vào phòng cấp cứu.

"Các bác sĩ đã khám rất kỹ và tiến hành kiểm tra chéo, họ kết luận rằng người đàn ông đầu tiên không hề bị ngộ độc thực phẩm. Thứ khiến ông ta cảm thấy khó chịu là chứng viêm dạ dày do thay đổi thời tiết và rượu lạnh. Điều đáng ngạc nhiên nhất là không có khách nào đến bệnh viện bị ngộ độc. Thậm chí không có ai trong số họ thực sự sinh bệnh.

“Đây chính là rối loạn phân ly tập thể.”

Deweyville khẽ gật đầu và tán thưởng: "Tôi hiểu rồi. Con người quả thực rất dễ tự lừa dối mình. Thảo nào Roselle Đại đế từng bảo rằng lời nói dối sẽ biến thành sự thật nếu lặp đi lặp lại cả trăm lần. Thanh tra, tôi nên xưng hô với anh như thế nào? Anh là bác sĩ tâm lí chuyên nghiệp nhất mà tôi từng gặp."

"Thanh tra Moretti." Klein chỉ ngôi sao trên vai mình và nói: "Thưa tước sĩ, rắc rối của ông bước đầu đã được giải quyết. Ông có thể thử ngủ một giấc để tôi xác nhận xem có vấn đề gì khác không. Nếu ông ngủ ngon, xin cho phép chúng tôi chào tạm biệt trước khi ông thức dậy.”

"Được rồi." Deweyville xoa trán, chống gậy và bước từng bước một lên phòng ngủ.

Nửa giờ sau, cỗ xe mang huy hiệu cảnh sát rời khỏi dinh thự có đài phun nước của tước sĩ Deweyville.

Sau khi hạ sĩ Gate xuống xe dọc đường để quay về đồn cảnh sát của mình, thanh tra Tolle nhìn về phía Klein. Ông mở miệng, giọng đùa giỡn pha chút lấy lòng: "Vừa rồi tôi cứ tưởng cậu là một chuyên gia tâm lí học thực thụ…”

Chưa kịp nói hết câu, ông đã nhìn thấy nét mặt vô cảm của người thanh niên mặc đồng phục ca rô đen trắng. Đôi mắt Klein tối sầm và sâu thẳm khi anh cố nặn ra một nụ cười: “Nhờ kinh nghiệm quá khứ mà thôi.”

Thanh tra Tolle im lặng cho đến khi xe ngựa dừng đỗ trước số 36 phố Zouteland.

"Cảm ơn cậu đã giúp ngài Deweyville hoàn toàn thoát khỏi phiền não và tìm về giấc ngủ.” Ông bắt tay Klein, “Cảm ơn Dunn thay tôi nhé.”

Klein khẽ gật đầu nói: "Vâng.”

Anh vượt qua những bậc cầu thang, quay về Công ty An ninh Blackthorn, gõ cửa trước  khi bước vào văn phòng đội trưởng.

"Xong xuôi rồi?" Dunn đang đợi bữa trưa của mình.

"Tôi đã giải quyết nó." Klein xoa trán, đáp ngắn gọn và thành thực, "Căn nguyên của vấn đề nằm ở nhà máy sản xuất chì và sứ của ngài Deweyville. Từ khi thành lập cho đến nay, đã có quá nhiều người chết vì ngộ độc chì. Sau mỗi vụ như vậy, ngài Deweyville lại phải gánh chịu một chút oán hận từ linh tính còn sót lại.”

“Thường thì nó sẽ không gây ra vấn đề lớn, cùng lắm là sẽ khiến người ta hay gặp ác mộng.” Dunn từng xử lý những trường hợp tương tự và có kinh nghiệm phong phú trong chuyện này.

Klein khẽ gật đầu: "Đúng thế, thường sẽ là vậy. Nhưng thật không may, một ngày nọ, ngài Deweyville đã gặp một nữ công nhân ngộ độc chì trên phố. Cô ấy ngã gục xuống lề đường và tình cờ trông thấy cỗ xe có biểu tượng gia tộc Deweyville. Đồng thời, cô còn mang trong mình sự không cam lòng, lo lắng cùng khát khao mãnh liệt. Mãi đến khi ngài Deweyville trao cho gia đình cô ấy 300 Bảng làm tiền bồi thường thì những cảm xúc ấy mới tan biến.”

“Đây là một vấn đề xã hội. Nó không còn là chuyện hiếm gặp trong thời đại hơi nước và máy móc nữa.” Dunn hít ống tẩu, thở dài nói, “Những người thợ dệt lanh làm việc trong môi trường ẩm ướt thường gặp phải bệnh viêm phế quản và bệnh liên quan đến khớp; bụi trong nhà xưởng khi tích tụ lại dù không gây ngộ độc cũng đủ để tăng tỷ lệ mắc các chứng bệnh về phổi. Đừng thảo luận về vấn đề này nữa. Khi vương quốc phát triển hơn, tôi tin rằng mọi thứ sẽ được giải quyết. Klein, tối nay chúng tôi định tìm một nhà hàng để tổ chức bữa tiệc chúc mừng cậu trở thành thành viên chính thức, cậu thấy sao?”

Klein suy nghĩ một lúc trước khi nói: "Có thể để ngày mai được không… Đội trưởng, hôm nay tôi đã sử dụng linh thị quá lâu, hơn nữa còn dùng thuật bói mộng để tương tác trực tiếp với các oán hận. Tôi cảm thấy rất mệt, chỉ muốn chiều nay có thể về nhà nghỉ ngơi. Vậy có được không? Tôi cũng định sẽ đến câu lạc bộ bói toán vào khoảng bốn hoặc năm giờ chiều để xem các hội viên phản ứng như thế nào trước cái chết đột ngột của Hanass Vincent nữa.”

"Không sao đâu, đó là chuyện nên làm." Dunn cười khúc khích, "Chốt là tối mai nhé. Chúng ta sẽ tổ chức ở ngay nhà hàng Già Will bên cạnh, tôi sẽ nhờ Rozanne đặt bàn."

Klein cầm mũ cảnh sát, đứng dậy chào Dunn: “Cảm ơn đội trưởng, hẹn gặp ông vào ngày mai.”

Dunn giơ tay bảo: “Khoan đã, cậu vừa nói rằng ngài Deweyville đã đưa cho cha mẹ của nữ công nhân đó một khoản tiền bồi thường 300 Bảng?"

"Đúng thế." Klein gật đầu, anh ngay lập tức hiểu lý do tại sao đội trưởng gọi lại mình, "Ông lo rằng họ sẽ gặp tai họa vì khoản tiền này?”

Dunn thở dài: "Trước đây tôi đã chứng kiến rất nhiều tình huống tương tự rồi. Cậu hãy cho tôi địa chỉ của họ, tôi sẽ nhờ Kenley thu xếp để họ rời Tingen và bắt đầu cuộc sống mới ở một thành phố khác.”

“Tôi hiểu rồi.” Klein trầm giọng đáp.

Xong việc, anh rời văn phòng của Dunn, bước vào phòng nghỉ nằm ở mé đối diện, thay bộ đồ ban đầu và đặt đồng phục cảnh sát trong ngăn tủ riêng của mình.

Klein lặng lẽ bắt một cỗ xe công cộng, lung la lung lay trở lại phố Hoa Thủy Tiên. Anh cởi áo khoác và mũ ra, hâm nóng thức ăn thừa từ đêm qua để ăn cùng với chiếc bánh mì yến mạch cuối cùng.

Sau đó, anh lên tầng hai, treo quần áo lên giá rồi thả mình xuống giường.

Khi anh tỉnh dậy, chiếc đồng hồ bỏ túi đã điểm hai giờ mười phút chiều. Mặt trời nóng như lửa đang treo trên cao, ánh nắng xuyên qua những tầng mây.

Dưới sắc vàng lộng lẫy, Klein đứng cạnh bàn làm việc, nhìn ra bên ngoài qua cửa sổ lồi. Anh quan sát những người đi đường mặc bộ đồ cũ nát, nhìn họ đi ra đi vào phố Chữ Thập Sắt.

Anh từ từ thở dài, cuối cùng cũng vượt qua trạng thái ủ dột.

Đi đường phải đi từng bước một. Danh Sách tăng lên phải tăng theo từng bậc một. Bất cứ chuyện gì cũng phải làm như vậy.

Anh lắc đầu, ngồi xuống và bắt đầu tổng kết, sắp xếp những gì mình đã gặp trong tuần trước, nhắc lại những điểm chính cần nhớ kỹ để tránh quên và bỏ sót.

Hai giờ năm mươi lăm phút chiều.

Phía trên màn sương mù trắng xám mờ ảo, vô tận và trống vắng có một ngôi đền uy nghi sừng sững, có một chiếc bàn đồng cũ kỹ lẳng lặng nằm đó.

Trên chiếc ghế tựa lưng cao ở đầu bàn là một người đàn ông bị bao phủ bởi màn sương dày màu xám.

Klein dựa vào lưng ghế, lặng lẽ suy tư một lúc. Anh bất ngờ vươn tay, chạm vào hai ngôi sao đỏ thẫm tượng trưng cho “Công Lý” và “Người Treo Ngược”.

.

Backlund, khu Hoàng Hậu.

Audrey xách váy, nhẹ nhàng bước về phía phòng ngủ.

Đột nhiên, nàng cảm thấy một điều gì đó, bèn nghiêng đầu nhìn về góc tối của ban công. Đúng như dự đoán, nàng tìm thấy cô chó săn lông vàng Susie đang lặng lẽ ngồi xổm trong góc và quan sát mọi thứ.

Audrey thở dài, vẽ mặt trăng đỏ thẫm trên ngực trước khi đến gần và nhìn xuống cô chó săn lông vàng: "Susie, em không được làm như thế. Đấy là nhìn trộm. Một ‘Khán Giả’ thực thụ sẽ quan sát mọi thứ một cách công khai.”

Cô chó săn lông vàng ngẩng đầu nhìn lên chủ nhân, lắc đuôi tỏ vẻ phối hợp.

Sau khi lải nhải vài câu, Audrey không dám lãng phí thời gian nữa. Nàng tiếp tục hướng về phòng ngủ. Khép cửa lại, một ý tưởng quái đản bỗng nảy ra trong đầu nàng: “Liệu ngài ‘Kẻ Khờ’ có thể khiến Susie tiến vào không gian thần bí kia không nhỉ. Như vậy Hội Tarot sẽ có bốn người! Tất cả đều là Kẻ Phi Thường!”

"Không được, Susie không thể nói chuyện. Nếu để cho nó phát biểu ý kiến, trao đổi ý tưởng thì sẽ thế nào? Sủa gâu gâu gâu? Hú hú hú? Phi, tại sao mình lại bắt chước tiếng chó sủa cơ chứ…”

“Chỉ cần tưởng tượng ra cảnh đó thôi cũng thấy kỳ quái rồi… Một buổi họp nghiêm túc và bí ẩn bỗng vang lên tiếng chó sủa… Mình và Susie nhất định sẽ bị ông ‘Kẻ Khờ’ tống khỏi Hội Tarot cho xem…”

Audrey khóa chặt cửa rồi ngồi xuống giường, lấy ra một tờ giấy cũ màu nâu vàng dưới gối.

Nàng đọc nó nhiều lần và bắt đầu chuyển sang trạng thái “Khán Giả”.

.

Tại một nơi nào đó ở biển Sonia, chiếc thuyền buồm cổ xưa đuổi bắt “Kẻ Lắng Nghe” đã rời xa quần đảo Rorsted.

Lo rằng chiếc đồng hồ treo tường gặp phải trục trặc, “Nhà Hàng Hải” Alger Wilson đã tiến vào phòng thuyền trưởng sớm hơn nửa giờ, tránh tình huống đột phát và bị đám thuộc hạ phát hiện.

Trước mặt anh là một ly rượu mạnh gần như trong suốt. Mùi thơm nồng nàn sánh quyện chui vào mũi anh.

Mỗi lần nghĩ đến buổi tụ họp sắp diễn ra, nghĩ đến màn sương xám vô biên xuất hiện trước mắt anh trong hành lang khách sạn cùng “Kẻ Khờ” ngồi giữa màn sương ấy luôn khiến cơ thể Alger hơi run rẩy.

Anh nâng ly, hớp một ngụm, dùng thứ chất lỏng có thể bỏng rát cổ họng ấy xoa dịu căng thẳng trong lòng.

Chẳng mấy chốc, anh đã lấy lại sự bình tĩnh. Dáng vẻ đó lạnh nhạt, bình thản và trầm ổn như mọi khi.

Bình luận (8)
Báo cáo bình luận không phù hợp ở đây

8 Bình luận

Nom nom phê
Xem thêm
Đọc đoạn đầu tầm 3h sáng sợ nha.
Xem thêm
Thời kì đầu cách mạng công nghiệp thật sự tàn bạo ha
Xem thêm
TRANS
Ôi hóng nhà quá > . <
Xem thêm
thanks truyện cuốn quá.
Xem thêm